Thứ Ba, 26 tháng 11, 2024

Viết phản tư lớp tâm lý trị liệu - Buổi 7. Liệu pháp hành vi

Bạn có thể áp dụng các kỹ thuật chánh niệm như thế nào trong cuộc sống hàng ngày của mình? Bạn đánh giá như thế nào về giá trị của việc trở nên chánh niệm hơn?

Chánh niệm là ý thức, tỉnh giác, chú tâm, hiện diện trọn vẹn ở giây phút hiện tại, ở đây, bây giờ. 

Một kỹ thuật giúp chúng ta có thể giữ được chánh niệm trong cuộc sống hàng ngày là việc giữ thái độ của người quan sát, tách rời, không dính mắc với tất cả những suy nghĩ, hành động, cảm xúc của mình. Chỉ quan sát với một sự chấp nhận, điềm tĩnh, từ bi. Khi chúng ta có thể giữ được chánh niệm như vậy, chúng ta sẽ nhận ra rằng tất cả các cảm xúc, suy nghĩ đều vô thường, chúng chợt đến rồi đi, và ta không bị đồng nhất với chúng, không bị cuốn theo chúng. 

Chúng ta cũng có thể dần dần mở rộng sự quan sát của mình, không chỉ là cảm xúc, suy nghĩ, những cảm thọ trên thân thể mà còn là âm thanh, màu sắc, hương vị, tất cả mọi thứ của cảnh trần xung quanh mình. Rèn luyện như thế giúp chúng ta tăng cường sức mạnh quán sát của bản thân, cũng như gia tăng ý thức về môi trường xung quanh, những người khác và bản thân mình đang như thế nào trong môi trường đó. Khả năng chánh niệm như thế giúp chúng ta trở nên nhạy cảm hơn với đời sống, nhận ra vẻ đẹp của cuộc sống trong những gì tưởng chừng như giản dị.

Một kỹ thuật chánh niệm khác nữa là rèn luyện sự chú tâm, đặt tất cả tâm ý mình, dốc lòng dốc sức vào từng hành động mình làm, toàn tâm toàn ý. Khi chúng ta làm việc với sự hiện diện, trọn vẹn và chú tâm như thế, chúng ta đang thổi hồn, đưa vào đó năng lượng và tình thương, bởi năng lượng đi theo sau tư tưởng. Nơi nào có sự chú tâm, nơi đó công việc được hoàn thành với hiệu quả cao, với vẻ đẹp và năng lượng tích cực.

Một kỹ thuật khác là việc sử dụng hơi thở làm chiếc neo đưa chúng ta trở về hiện tại, bởi hơi thở luôn luôn hiện diện ở hiện tại. Nên bất cứ khi nào tâm trí đang lang thang, hoặc khi đối diện với cảm xúc khó, chúng ta có thể hít thở sâu để nhắc mình quay về ý thức với hiện tại.

Sống với chánh niệm chính là sống “thiền”, là thiền trong những hoạt động hàng ngày. Chánh niệm không phải là ngồi thiền tĩnh tọa. Nhưng việc ngồi xuống mỗi ngày để tham thiền sẽ nuôi dưỡng thêm chánh niệm trong đời sống, giúp chúng ta có thể giữ chánh niệm ngày càng dễ dàng hơn.

Giá trị của việc trở nên chánh niệm hơn đó là một cuộc sống tỉnh thức, tự do khỏi những thôi thúc của bản năng, tự do khỏi sự phán xét của định kiến, thiên kiến, hiểu được rõ ràng bản thân và người khác, làm chủ cuộc đời mình, và ngày càng tinh tấn trên con đường mở rộng tâm thức, tiến hóa tinh thần.




Thứ Tư, 20 tháng 11, 2024

Đi qua giông bão

Mấy hôm nay, thực ra đã mấy tuần nay khi Hỏa tinh đối đỉnh Pluto, mình cũng đã trải qua những trận chiến drama thực sự kinh khủng ở ngoài đời. Phải đối diện với sự vu khống, chửi mắng và tấn công của đám đông, bóng tối bên ngoài; cơn tức giận uất ức và bóng tối ở bên trong. 

Điều giúp mình chuyển hóa và đi qua được có lẽ chính là nhờ sự trụ tâm trên "ngọn tháp cao" của linh hồn, để có thể vững vàng trước những giông bão ảo cảm quay cuồng đó. Mình càng thấy rõ tầm quan trọng của việc rèn luyện định lực và sự tỉnh thức sáng suốt trước cơn bão cuồng nộ mà nếu không trụ vững sẽ có thể rất dễ dàng bị cuốn theo và chìm trong đó. 

Mình chấp nhận bị ghét bỏ, xua đuổi vì ta không thể kiểm soát được sự yêu ghét của người đời, chấp nhận mình chưa đủ trình độ và năng lực để cảm hóa và yêu thương. Mình cũng cần có sự tự tri và phải hiểu rõ bản thân để không bị dao động.  

Mình đã phản kháng rất mạnh mẽ, dữ dội nhưng bất bạo động và tỉnh thức, chịu đựng thử thách. Và mình đã đi qua cơn bão như thế.

Cập nhật ngày 22.11.2024: Học thêm được một phương pháp nữa từ chia sẻ của Ý ở buổi học nhóm IHS, mà thực ra chính xác là mình đã áp dụng mỗi lúc căng thẳng khó khăn nhất: tụng mantram hay niệm Phật.



Thứ Ba, 19 tháng 11, 2024

Viết phản tư lớp tâm lý trị liệu - Buổi 6. Liệu pháp Gestalt

Liệu pháp Gestalt là một trường phái tâm lý học trị liệu ở Áo, Đức đầu thế kỷ 20, dựa trên ba nền tảng là thuyết hiện sinh, hiện tượng học và lý thuyết trường. Với nền tảng thuyết hiện sinh, liệu pháp Gestalt quan niệm rằng con người luôn trong quá trình trở thành, tái tạo, và tái khám phá bản thân; con người không có một bản sắc cố định mà liên tục phát triển khi đối mặt những thách thức mới. Với nền tảng hiện tượng học, liệu pháp nhấn mạnh việc tập trung vào cách thân chủ nhận thức về thực tại của họ, thay vì áp đặt cách diễn giải từ bên ngoài. Với nền tảng lý thuyết trường, thân chủ phải được nhìn nhận trong bối cảnh của họ, như một phần của môi trường luôn biến đổi. Nhà trị liệu đưa thân chủ từ trạng thái phụ thuộc vào sự hỗ trợ của môi trường sang trạng thái tự hỗ trợ bản thân và tái hợp nhất những phần bị chối bỏ trong nhân cách của họ. Việc tích hợp những phần bị chối bỏ trong nhân cách là quan trọng bởi vì những phần không được thừa nhận sẽ tạo ra những mảnh vụn cảm xúc làm rối loạn nhận thức về hiện tại; những vấn đề chưa được xử lý sẽ tồn tại cho đến khi cá nhân đối mặt và xử lý với những cảm xúc chưa được bày tỏ, vốn sẽ tạo thành những tắc nghẽn trên thân. 

Liệu pháp Gestalt nhấn mạnh vào khoảnh khắc hiện tại và việc con người cần được hiểu trong mối quan hệ liên tục với môi trường của họ. Tất cả các yếu tố của thân chủ như thể chất, cảm xúc, hành vi, đều quan trọng như nhau và đều được xem xét đến trong toàn thể. Ba cốt lõi của liệu pháp là nhận thức, sự lựa chọn và trách nhiệm của mỗi cá nhân. Mục tiêu của Gestalt nhằm giúp thân chủ mở rộng nhận thức về trải nghiệm trong thời điểm hiện tại, từ đó tạo nên sự thay đổi. Giả định cơ bản ở đây là con người có khả năng tự điều chỉnh khi nhận thức được những gì đang diễn ra bên trong và xung quanh họ. Việc nâng cao và làm phong phú nhận thức, tự thân có đã có tác dụng chữa lành. Với nhận thức, con người có thể đối mặt, chấp nhận và tích hợp những phần bị phủ nhận. Phương pháp tập trung vào trải nghiệm “ở đây” và “bây giờ”, cách con người trải nghiệm, sự chân thực của nhà trị liệu, quá trình tìm hiểu khám phá qua đối thoại. 

Việc tập trung vào hiện tại được xem là một đóng góp quan trọng của phương pháp này gợi nhắc mình đến phương pháp thiền Vipassana và việc rèn luyện giữ chánh niệm của Phật giáo, vốn có tính chữa lành rất cao. Thông qua việc tập trung quán sát trải nghiệm hiện tại, quán sát những thay đổi trên thân, hơi thở, cảm xúc, suy nghĩ ở hiện tại chúng ta được neo giữ trong khoảnh khắc ở đây và bây giờ. Bởi vì quá khứ đã qua, tương lai thì chưa tới. Chính khoảnh khắc hiện tại là cái chân thật nhất mà ta có thể tiếp xúc, chứa đựng sức mạnh lớn lao để chuyển hóa, khi ta hoàn toàn có được ý thức về nó. Ý thức về hiện tại giữ cho chúng ta chánh niệm và tỉnh giác, vốn giúp ta duy trì được trạng thái làm chủ bản thân, không bị đồng nhất với cả cảm xúc, hay suy nghĩ, mà tách rời, khách quan với chúng. Thái độ của người quan sát này chính là thái độ của Linh Hồn, tỉnh thức, từ góc độ nội môn. Khi tỉnh thức với sức mạnh của Linh Hồn, chúng ta sáng suốt và nâng cao nhận thức, nhận ra phản ứng của phàm ngã và chặn đứng nó ngay trước khi nó phát triển, từ đó mà định lực và nội lực tự thân của ta ngày càng vững mạnh, và sự phản ứng vô thức, theo tiềm thức, thói quen hay bản năng càng bị suy yếu, giảm dần. Nhận thức này dần dần đưa chúng ta đến việc làm chủ cuộc đời mình. 

Nhà trị liệu đặt mình hoàn toàn vào trải nghiệm của thân chủ, hiện diện trọn vẹn trong quá trình trị liệu, không phán xét, phân tích hay diễn giải, tin tưởng vào sự phát triển thông qua tiếp xúc chân thực, duy trì ý thức về sự hiện diện độc lập của bản thân và thiết kế các thử nghiệm giúp thân chủ nhận thức rõ hơn về hành vi của họ trong từng khoảnh khắc. Nhà trị liệu giúp thân chủ đối mặt trực tiếp với suy nghĩ, cảm xúc và hành động trong tương tác với mình.

Tiếp xúc qua các giác quan (nhìn, nghe, ngửi, chạm, chuyển động…) là yếu tố then chốt để tạo nên sự thay đổi và phát triển trong liệu pháp Gestalt, như nguồn sống nuôi dưỡng sự phát triển và là quá trình liên tục điều chỉnh sáng tạo giữa cá nhân và môi trường. Tiếp xúc hiệu quả là sự tương tác với thiên nhiên và con người mà không đánh mất cảm nhận về cá tính riêng của bản thân; điều này cần có nhận thức rõ ràng, năng lượng dồi dào và khả năng thể hiện bản thân. 

Lưu ý rằng sau tiếp xúc cần có giai đoạn rút lui để tích hợp những gì đã học được. Nếu tiếp xúc quá mức mà thiếu giai đoạn rút lui, con người sẽ bị choáng ngợp, kiệt quệ về cảm xúc, giảm kết nối với cảm giác bên trong, thiếu cơ hội để học hỏi từ những trải nghiệm vì ở chế độ "phản ứng liên tục”, thiếu không gian để tái tạo năng lượng… Điều này làm mình liên hệ với chu kỳ tuần hoàn âm dương của đời sống, sự thở ra và hít vào đều tất yếu và cần thiết.



Thứ Hai, 11 tháng 11, 2024

Viết phản tư lớp tâm lý trị liệu - Buổi 5. Liệu pháp nhân vị trọng tâm

 


“Điều nghịch lý thú vị là khi tôi chấp nhận bản thân mình đúng như tôi vốn là, thì lúc đó tôi mới có thể thay đổi.” ~ Carl Rogers

Có lẽ trong các liệu pháp tâm lý được học đến giờ, nhân vị trọng tâm của Carl Rogers là cái mà mình thấy chạm và thích nhất, bởi tính nhân văn của nó. Có gì đó thật dịu dàng, bao dung và đầy tính chữa lành. Khác với phân tâm học của Freud quá chú trọng vào quá khứ, bệnh tật và mặt tối của bản chất con người, liệu pháp nhân vị trọng tâm tập trung vào sự hiện diện trọn vẹn với con người hiện tại, và hướng đến ánh sáng, tin tưởng vào ánh sáng thiên tính đẹp đẽ luôn ở đó, ẩn sâu trong bản thể con người, chờ được hiển lộ và phát tỏa. 

Liệu pháp dựa trên niềm tin vào tiềm năng lớn lao về việc con người có thể hiểu chính mình, tự định hướng, tự chữa lành và tự thực chứng. Cách tiếp cận này mang tính cách mạng và ảnh hưởng lớn đến lĩnh vực tâm lý trị liệu hiện đại từ khi nó ra đời, với việc xem thân chủ là tác nhân chính của sự thay đổi. Vai trò của nhà trị liệu sẽ giống như một người bạn đồng hành hơn là một chuyên gia áp đặt, tạo ra môi trường an toàn, tôn trọng, để thân chủ nới lỏng cơ chế phòng vệ, thay đổi những nhận thức cứng nhắc về bản thân và tự do khám phá những khía cạnh cuộc sống mà trước đây họ phủ nhận. 

Sự thay đổi tích cực xuất hiện khi một người biết chấp nhận bản thân nhiều hơn, sống thật hơn với chính mình và bớt bị ảnh hưởng bởi kỳ vọng của người khác. Tất nhiên, nhận diện và soi tỏ thấu những mặt tối không phải là buông xuôi hay để mình chìm đắm trong đó. Công việc chuyển hóa tiếp sau đó cần rất nhiều tình thương, chánh niệm tỉnh thức, và nhất là nỗ lực làm tăng trưởng ánh sáng nội tâm.  Khi ánh sáng được thắp lên thì bóng tối tự nhiên cũng được đẩy lùi. 

Sự đồng hành chân thành, thấu cảm và sự chấp nhận tích cực vô điều kiện từ nhà trị liệu sẽ giúp nuôi dưỡng niềm tin vào bản thân của thân chủ trên con đường tự khám phá bản thân, giúp họ dần dần phát triển khả năng tự chủ cuộc sống, tự tin vào quyết định của mình.

Nhân vị trọng tâm cũng tin vào khả năng sáng tạo bẩm sinh trong mỗi con người, và tính chất chữa lành và chuyển hóa của quá trình sáng tạo. Nhiều hình thức nghệ thuật biểu đạt khác nhau như viết, vẽ, điêu khắc, âm nhạc, sáng tác ngẫu hứng, nhảy múa… có thể giúp giải tỏa, thúc đẩy sự chữa lành và tự nhận biết của thân chủ.

Nhân vị trọng tâm nhấn mạnh tầm quan trọng của của việc sống thật với bản thân, trung thực và nhất quán (congruence), quan trọng nhất là với chính mình. Vấn đề tâm lý thường có nguyên nhân từ những xung đột nội tâm, vốn xảy ra khi có điều gì đó chưa hài hòa với lương tri, với bản thể chân thật cao cả và sâu thẳm của một người. Và thực ra, ở một mặt nào đó, sự xung đột này là cần thiết để bắt đầu hành trình thức tỉnh.

Rõ ràng, khả năng thấu cảm là đặc tính cốt lõi cần thiết của người tham vấn trong liệu pháp nhân vị trọng tâm. Vậy làm sao để nâng cao khả năng phát triển sự thấu cảm với một người mà ta thấy khó tương tác? Có lẽ là sẽ cần thật nhiều lòng từ bi, tình thương, bao dung, chấp nhận, buông bỏ mọi phán xét, thiên kiến, và đặt bản thân vào hoàn cảnh của một người để có thể hiểu những “cuộc chiến”, nỗi khó khăn, đau đớn mà họ đang đối mặt. Mình có làm được không? 




Thứ Sáu, 8 tháng 11, 2024

Viết phản tư lớp tâm lý trị liệu - Buổi 4. Học thuyết Hiện sinh

Chủ đề bài học rất hay, muốn viết nhiều thứ mà nhiều việc quá nên nộp bài vào phút cuối, chỉ kịp viết vội để có bài nộp thôi, chưa thể hiện được hết những điều muốn nói.

Trong thời đại ngày nay, con người đang đối mặt với nhiều thách thức, những câu hỏi hiện sinh được đặt ra về sự cô đơn, khủng hoảng nhân dạng, ý nghĩa cuộc đời, nỗi lo về tương lai, sự tự do chân thật... 

Theo mình chủ đề hiện sinh đang là mối quan tâm hàng đầu của nhiều người là câu hỏi về ý nghĩa cuộc đời hay sâu xa hơn là về danh tính thật sự của con người. Phải chăng con người chỉ có mỗi thể xác này, và nếu chết là hết thì cuộc đời có vô nghĩa quá chăng khi mọi thứ sẽ tan biến vào cát bụi khi ta không còn trên cõi đời này.

Mình thích tính hành động, tích cực và dấn thân của chủ nghĩa hiện sinh nhưng mình không hẳn đồng ý hoàn toàn với nó. Dưới góc nhìn triết học nội môn mà mình đang nghiên cứu, mình tìm ra được những tương đồng và hiểu được sự khác biệt vốn có thể giải thích được hầu hết các vấn đề mà triết học hiện đại còn hoang mang. 

Theo minh triết thiêng liêng hay triết học nội môn, chúng ta như là những thực thể tinh thần đang có trải nghiệm con người trên cõi trần này. Khi hiểu về nguồn cội tinh thần sâu xa và cao quý này, con người sẽ giải quyết được nỗi sợ về cái chết. Bên cạnh đó, minh triết thiêng liêng cũng cho chúng ta bức tranh lớn về vũ trụ, với nhiều cõi giới khác nhau, cùng những quy luật riêng của nó. Việc hiểu rằng vũ trụ mà chúng ta đang sống trong đó không phải là ngẫu nhiên mà là có luật, hoạt động theo Thiên Luật. Khi hiểu được đằng sau mọi hình tướng đẹp đẽ của biểu lộ và thiết kế tài hoa của Thiên Nhiên, chúng ta sẽ thấy trân trọng và biết ơn cuộc sống này hơn. Minh triết thiêng liêng cũng nói về Thiên Cơ như một kế hoạch thiêng liêng lớn dành cho nhân loại, mà mục đích linh hồn trong mỗi kiếp sống của mỗi người là một mảnh ghép trong bức tranh lớn đó. Hiểu được điều này sẽ cho chúng ta định hướng về mục đích sống, thấy mình là một phần trong vũ trụ, và hướng tới những điều cao cả hơn chính bản thân. Từ đó, cuộc sống có ý nghĩa và hạnh phúc với việc phụng sự Thiên Cơ.