Thứ Tư, 25 tháng 12, 2024

Viết phản tư lớp tâm lý trị liệu - Buổi 11. Các liệu pháp tiếp cận hậu hiện đại

Trong khi các liệu pháp tiếp cận hiện đại coi thực tại như một sự thật khách quan và xem chân lý là duy nhất, thì quan điểm hậu hiện đại lại cho rằng thực tại được xây dựng thông qua nhiều quan điểm khác nhau, bị giới hạn bởi bối cảnh lịch sử và văn hóa. 

Liệu pháp tiếp cận hậu hiện đại gắn với khái niệm về chủ nghĩa kiến tạo xã hội, trong đó thực tại không tồn tại độc lập, mà được xây dựng qua ngôn ngữ và tương tác xã hội, không có một cách duy nhất để hiểu thế giới. 

Với liệu pháp trần thuật hay tự sự, thông qua ngôn ngữ, trị liệu được diễn ra qua một hệ thống đối thoại, giải cấu trúc, ngoại hóa vấn đề, tách vấn đề ra khỏi con người, giúp thân chủ thoát khỏi sự “mắc kẹt” trong các hệ thống ngôn ngữ và ý nghĩa cũ, viết lại, sáng tạo câu chuyện cuộc đời mới thay thế. Phương pháp được áp dụng là nhà trị liệu đặt mình ở vị thế “không biết gì”, tiếp cận thân chủ với sự tò mò, cởi mở, đồng hành, tạo điều kiện để giúp thân chủ trở thành chuyên gia kể về cuộc đời mình.

Trong khi đó tiếp cận giải pháp ngắn hạn, tập trung vào tương lai, thời gian được rút gọn, phù hợp với trẻ em…

Với các cách tiếp cận này, cho dù vấn đề là gì thì cứ tập trung vào mục tiêu của thân chủ, hướng đến xây dựng cái mình mong muốn. Các phương pháp có nhiều điểm chung với liệu pháp nhân vị trọng tâm.


Thứ Hai, 16 tháng 12, 2024

Viết phản tư lớp tâm lý trị liệu - Buổi 10. Liệu pháp nữ quyền

 Mình đã ngạc nhiên thú vị khi biết rằng “Nữ quyền” không chỉ là một phong trào về bình đẳng giới mà còn là tên của một liệu pháp tâm lý trị liệu. Buổi học bắt đầu kịch tính với những thước phim trích từ bộ series phim truyền hình “Hoa Hồng trên Ngực Trái”, nói về Khuê và thân phận người phụ nữ với những gánh nặng từ những định kiến, áp lực xã hội nội hóa khiến cô gần như phụ thuộc vào chồng, hy sinh cho gia đình và không được sống cuộc đời của chính mình…

Điều mình thích ở liệu pháp này là sự hướng tới thay đổi xã hội chứ không chỉ cá nhân, thúc đẩy một tầm nhìn mới về tổ chức xã hội, giải phóng cả nam và nữ khỏi ràng buộc của vai trò giới và giai cấp xã hội. Liệu pháp nhấn mạnh vào cốt lõi về sự trao quyền cho cá nhân, gắn liền với sự tham gia tích cực vào các nỗ lực thay đổi xã hội rộng lớn hơn. Ý thức công bằng xã hội không chỉ được nhìn từ góc độ giới mà còn hướng về những người yếu thế nói chung. Việc tham gia nhóm hình thành một mạng lưới xã hội hỗ trợ phụ nữ và các đối tượng yếu thế, giúp gia tăng sự kết nối và làm cho con người cảm thấy bớt cô độc. Bên cạnh đó, nhóm cũng cung cấp một không gian an toàn, nơi phụ nữ được trân trọng và có thể khẳng định bản thân, trong sự chấp nhận thương yêu, thấu hiểu và đồng cảm.

Liệu pháp giúp giải quyết vấn đề bất bình đẳng trong xã hội, định nghĩa lại nam tính và nữ tính theo các giá trị phi truyền thống và góp phần tích cực vào nỗ lực xây dựng một xã hội công bằng, nhân văn hơn. 

Bài học cũng đã khiến mình suy nghĩ về tính nam và tính nữ vốn phải được nuôi dưỡng và thể hiện một cách lành mạnh, cân bằng. Hơn nữa, bình đẳng giới không hẳn đồng nghĩa với việc cào bằng giữa hai giới mà còn cần có sự nhạy cảm giới, cũng như tập trung vào điểm mạnh của mỗi giới, để cho mỗi giới được trân trọng và phát huy thế mạnh của mình. Có như thế, sự phát triển mới thực là “trung - chánh” theo quan điểm của Dịch lý.


Thứ Hai, 9 tháng 12, 2024

Viết phản tư lớp tâm lý trị liệu - Buổi 9. Liệu pháp thực tế hay Lý thuyết Lựa Chọn

Liệu pháp thực tế (1965) hay Lý thuyết Lựa Chọn (1996) được sáng lập bởi William Glasser khi ông nhận ra những giới hạn của phân tâm học và phát triển quan điểm nên tập trung vào phần lành mạnh của thân chủ. Quan điểm chính của lý thuyết này là con người chịu trách nhiệm về những lựa chọn của mình, vốn được thúc đẩy bởi nhu cầu và mong muốn nội tại. Sự trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho thân chủ được nhấn mạnh, với thông điệp rằng ta chỉ có thể kiểm soát được chính mình, thay vì chờ người khác thay đổi.

Lý thuyết này đưa ra 5 nhu cầu cơ bản là sinh tồn, yêu thương và gắn kết, quyền lực/kiểm soát nội tại, tự do/độc lập, và niềm vui thích. Khó khăn tâm lý xảy ra khi các nhu cầu tâm lý cơ bản này không được đáp ứng. Mỗi người đều có 5 nhu cầu này ở những mức độ khác nhau, trong đó, nhu cầu yêu thương và thuộc về được xem là quan trọng nhất dù cũng là nhu cầu khó thỏa mãn nhất do đòi hỏi sự hợp tác từ người khác.

Trọng tâm của liệu pháp hướng đến giúp thân chủ đưa ra những lựa chọn hiệu quả trong các mối quan hệ, mà trước hết cần thiết lập được mối quan hệ tốt giữa nhà trị liệu và thân chủ (liên minh trị liệu).

Lý thuyết này cho rằng vấn đề chính của con người thường liên quan đến các mối quan hệ, hoặc là không hài lòng, hoặc thiếu vắng các mối quan hệ; không thể kết nối với những người quan trọng trong cuộc đời. Mọi vấn đề tâm lý kéo dài đều là liên quan đến mối quan hệ. Ta chỉ có thể đáp ứng những nhu cầu này bằng cách đạt được những hình ảnh nội tâm mà chúng ta xây dựng trong thế giới chất lượng của mình. Thế giới chất lượng là thế giới lý tưởng mà một người mong muốn được sống trong đó, vốn được xây dựng từ những trải nghiệm tích cực.

Lý thuyết này nói về hành vi toàn diện, cách ta phản ứng với môi trường, sự kiện; bao gồmi 4 thành phần gồm hành động, suy nghĩ, cảm xúc, sinh lý, liên quan đến nỗ lực tốt nhất để đạt được điều mình muốn và thỏa mãn nhu cầu. Sự nhấn mạnh nằm ở suy nghĩ và hành động. Hành vi là một ngôn ngữ, gửi đi thông điệp qua hành động. Lý thuyết khẳng định rằng thay đổi không chỉ đến từ sự thấu hiểu mà còn cần có hành động cụ thể.

Liệu pháp thực tế nhấn mạnh lựa chọn và trách nhiệm với nguyên tắc cốt lõi: “Người duy nhất bạn có thể kiểm soát là chính mình.” Các nhà trị liệu thực tế không dành nhiều thời gian lắng nghe những lời phàn nàn, chỉ trích, đổ lỗi (vốn được xem là những hành vi kém hiệu quả nhất). Thay vào đó, họ nhấn mạnh vào lựa chọn và trách nhiệm cá nhân, với niềm tin rằng thân chủ có nhiều quyền kiểm soát hành vi của mình hơn họ nghĩ, giúp họ nhận ra trách nhiệm với hành động của mình. Điều này được dựa trên tiền đề rằng thân chủ luôn có những lựa chọn và hãy tập trung vào những lĩnh vực mà mình có thể thực hiện lựa chọn. 

Liệu pháp tập trung vào hiện tại, dù không từ chối hoàn toàn quá khứ, mà sẵn sàng lắng nghe về những thành công và những mối quan hệ tốt đẹp trong quá khứ, vì điều này có thể tái tạo. Dù quá khứ đưa chúng ta đến hiện tại nhưng nó không nhất thiết quyết định tương lai. Con người vẫn có tự do lựa chọn, dù trong giới hạn của thế giới bên ngoài.

Mô hình WDEP cụ thể hóa các bước giúp thân chủ nhận ra hành vi hiện tại không đáp ứng nhu cầu, họ có thể chọn hành vi khác hiệu quả hơn và chỉ có thể kiểm soát hành vi của chính mình. Điều này tạo nên động lực thay đổi và việc trị liệu sau đó tập trung vào việc khám phá và đưa ra những lựa chọn tốt hơn. Thân chủ hiểu được rằng họ không phải là nạn nhân, và họ có khả năng đạt được cảm giác kiểm soát bản thân, nội tại và có nhiều lựa chọn mở ra cho họ.

W (Wants): Mong muốn của bạn là gì? Nếu bạn sống như mong muốn thì sẽ như thế nào?

D (Direction/Doing): Bạn đang làm gì? 

E (Evaluation): Tự đánh giá xem hành vi hiện tại có giúp bạn đạt được điều mình mong muốn không?

P (Planning and Action): Lập kế hoạch hành động để đạt được mong muốn.




Thứ Ba, 3 tháng 12, 2024

Viết phản tư lớp tâm lý trị liệu - Buổi 8. Liệu pháp nhận thức hành vi

Liệu pháp nhận thức hành vi (CBT) dựa trên lý thuyết rằng niềm tin, hành vi, cảm xúc và phản ứng cơ thể có mối liên hệ tương tác lẫn nhau; sự thay đổi ở một khía cạnh này có thể đưa đến sự thay đổi ở khía cạnh khác. Rối loạn cảm xúc bắt nguồn từ niềm tin phi lý, thường được thể hiện qua các từ “phải”, “bắt buộc”, “nên”, được học từ người khác trong thời thơ ấu, và chính chúng ta đã duy trì niềm tin này qua tự ám thị và lặp lại, từ đó hình thành các thái độ và hành vi rối loạn chức năng. Con người bị xáo trộn không phải bởi các sự kiện mà bởi thái độ hay cách nhìn nhận của họ về chúng. Việc đổ lỗi là nguồn gốc của nhiều rối loạn cảm xúc. Do đó, mỗi người chịu trách nhiệm cho trạng thái cảm xúc của mình. 

Ba niềm tin phi lý cốt lõi (ba điều “buộc phải”) mà con người thường dính mắc đó là: 

(1) nhu cầu phải thành công và được chấp nhận, yêu mến; 

(2) sự đòi hỏi người khác phải đối xử tốt, công bằng, tử tế với mình; 

(3) kỳ vọng thế giới phải thỏa mãn mọi mong muốn của mình.

Nhà trị liệu áp dụng kỹ thuật hành vi (điều kiện hóa, làm mẫu), kết hợp với chiến lược nhận thức để giúp thân chủ kiểm tra và thay đổi niềm tin của mình như tranh luận, thách thức những niềm tin phi lý qua việc đặt câu hỏi về các tư duy tuyệt đối như “phải”, “nên”, “cần”. Quá trình trị liệu mang tính giáo dục, nhà trị liệu hướng dẫn thân chủ nhận diện và tranh luận với những niềm tin phi lý, thay thế chúng bằng những nhận thức hợp lý hơn qua việc đọc sách, thay đổi cách sử dụng ngôn ngữ, từ tuyệt đối sang linh hoạt hơn. Ngoài ra còn có kỹ thuật tạo cảm xúc, phát triển cảm xúc lành mạnh thay thế những cảm xúc tiêu cực; sử dụng sự hài hước để chỉ ra sự phi lý trong tư duy, để không quá nghiêm trọng với bản thân và có thể cười về những suy nghĩ tự bại của mình; nhập vai để bộc lộ và xử lý cảm xúc trong các tình huống cụ thể nhằm rèn luyện để không bị ảnh hưởng bởi phản ứng của người khác, tăng cường sự tự chấp nhận và trách nhiệm cá nhân.

Liệu pháp nhấn mạnh rằng khi ta học cách chấp nhận thực tế cuộc sống, bao gồm cả niềm vui và nỗi đau, một cách không phán xét, ta sẽ có khả năng tận hưởng cuộc sống tốt hơn. Vì thế, mục tiêu của nhà trị liệu, ngoài việc giúp thân chủ giảm thiểu rối loạn cảm xúc và hành vi tự hại qua việc xây dựng một triết lý sống thực tế và khả thi, còn là giúp thân chủ phát triển ba dạng chấp nhận vô điều kiện:

(1) Tự chấp nhận bản thân

(2) Chấp nhận người khác, và

(3) Chấp nhận cuộc sống.

Thách thức của CBT khi áp dụng trong bối cảnh của Việt Nam có lẽ do những niềm tin về chuẩn mực thành công của xã hội bảo thủ và chuộng vật chất đã ăn khá sâu vào quần chúng. Để thực sự độc lập khỏi những tư duy đám đông “dòng chính” này không dễ dàng. Nó đòi hỏi một sự bứt phá mạnh mẽ, vốn phải dựa trên một sự thức tỉnh tâm linh cũng như sự tự tri sáng tỏ, cùng với sự can đảm, chính trực, cảm giác tự trọng lành mạnh và việc dám sống thực với chính mình. Với sự tự tin, tự tri sâu sắc, bên cạnh sự kỷ luật, kiên trì, tự giác, lòng dũng cảm của người quân tử, sự thấu hiểu lẽ tự nhiên và khai ngộ minh triết (Đạo), nhận ra hạnh phúc và nguồn lực đích thực vốn nằm trong những nguồn lực hay sự giàu có tinh thần chứ không phải bên ngoài hay vật chất, con người mới có thể phá chấp, buông bỏ những dính mắc này và có thể chấp nhận vô điều kiện bản thân, người khác và xã hội.