Photo by Moaan
“Nhìn thế giới trong một hạt cát
Và Thiên Đàng trong một nhành hoa
Giữ vô tận trong lòng bàn tay
Và vĩnh cửu trong một giờ ngắn ngủi”
(Thơ William Blake)
1. Tư duy hệ thống
“The world we have created is a product of our thinking; it cannot be changed without changing our thinking“. - Albert Einstein
Tư
duy hệ thống là phương pháp tư duy hướng đến mở rộng tầm nhìn để hiểu
mối liên hệ tồn tại giữa mọi sự vật, nhận thức được nguyên nhân sâu xa
ẩn dưới bề nổi của những hiện tượng tưởng chừng như riêng rẽ. Trong
những hệ thống phức tạp như xã hội con người, nhân và quả không ”nhãn
tiền” mà thường cách xa nhau trong thời gian và không gian. Do đó có lúc
ta dễ tạo ra cái lợi trước mắt mà khó thấy được tác hại lâu dài về sau.
Tư duy hệ thống giúp ta thấy bức tranh chính xác hơn của hiện thực được
nhìn từ nhiều góc độ, khuyến khích ta suy nghĩ sâu sắc hơn về vấn đề và
đưa ra những giải pháp với tầm nhìn xa rộng và bền vững. Vì vậy, nó đặc
biệt cần thiết cho những người làm lãnh đạo, nhất là khi phải đưa ra
những quyết định, sách lược quan trọng.
Phương
pháp tư duy thông thường là tư duy tĩnh, tuyến tính, tập trung vào sự
kiện, kết quả, xem Nhân-Quả là một chiều và mỗi nguyên nhân độc lập với
các nguyên nhân khác. Trong khi đó, tư duy hệ thống là tư duy động -
nhìn vấn đề dựa trên những kiểu mẫu hành xử (pattern of behaviour) theo
thời gian, phi tuyến (tư duy vòng lặp), tập trung vào nguyên nhân, xem
nguyên nhân như một quá trình chứ không chỉ là sự kiện chỉ xảy ra một
lần, với kết quả phản hồi ảnh hưởng trở lại nguyên nhân và những nguyên
nhân ảnh hưởng lẫn nhau.
Tóm lại, tư duy hệ thống là:
- Tư duy môi trường - bối cảnh (environmental thinking, contextual thinking),
tư duy toàn thể (holistic thinking), mở rộng sự thấu hiểu về các liên
kết tồn tại giữa các hiện tượng, giữa sự vật với môi trường. Để hiểu một
sự vật thấu đáo, ta không chỉ chú tâm vào chi tiết mà còn phải cân nhắc
đến bối cảnh xung quanh nó.
- Tư duy mạng lưới (network thinking),
chú trọng vào mối quan hệ giữa các sự vật hơn là từng vật thể riêng lẻ,
khuyến khích tương tác linh động giữa các cấp bậc trong hệ thống.
- Tư duy tiến trình (process thinking),
hiểu rằng muốn thay đổi kết quả, trước hết phải thay đổi tiến trình dẫn
đến kết quả, khuyến khích cách quản lý tập trung vào tiến trình hơn là
thành quả (liên hệ đến giáo dục, cách đánh giá học sinh qua quá trình
học hơn chỉ là điểm số của bài thi cuối cùng).
- Tư duy hồi quy (backward thinking),
kiểm tra giả thuyết, đặt ra những câu hỏi hồi tiếp để đi đến tận cùng
vấn đề, đây là công cụ bổ túc cho dự đoán (foresight). Đặt ra kế hoạch
dựa trên tầm nhìn lý tưởng tốt nhất về tương lai (không giới hạn khả
năng của mình). Từ đó, suy nghĩ ngược lại để xác định những phương thức
có tiềm năng dẫn đến kết quả mong muốn đó. Chọn giải pháp thích hợp nhất
và tối ưu hóa tất cả những bộ phận, mối quan hệ trong hệ thống theo đó.
Chưa dừng lại ở đây, với những thay đổi mới, vòng lặp sẽ tiếp tục được
lập lại để kiểm tra, điều chỉnh theo những phản hồi từ hệ thống.
Tư
duy hệ thống khuyến khích chúng ta thấy rừng chứ không chỉ từng cái
cây, ”see the forest for the trees”. Đứng trong rừng, ta chỉ thấy cây,
muốn thấy cả khu rừng ta cần góc nhìn bao quát như từ trên cao xuống.
Tương tự, những vấn đề rắc rối mà ta đang mắc kẹt nhiều khi không thể
giải quyết bằng chính lối tư duy đã gây ra nó. Những lúc như vậy, ta cứ
thư giãn, tĩnh lặng cho tiềm thức hành động, để tư duy của chúng ta được
tự do sáng tạo, thoát khỏi lối mòn cũ.
Chúng ta
thường dính mắc vào chi tiết, mà quên đi cái toàn thể. Như câu chuyện
những thầy bói mù xem voi, người sờ tai voi thì bảo con voi giống như
cái quạt, người sờ chân voi bảo nó giống như cột nhà… Nhưng hai nửa con
voi không phải là một con voi, một hệ thống sống không chỉ gồm tổng thể
các bộ phận của nó. Mỗi hệ thống là một toàn thể thống nhất.
Tầm
nhìn hệ thống về cuộc sống nhìn thế giới qua các mối liên quan tương
tác, kết nối lẫn nhau của mọi hiện tượng vật lý, sinh học, tâm lý xã
hội, văn hóa. Phân tích – chia chẻ và tổng hợp là hai cách tiếp cận bổ
túc, khi được sử dụng trong cân bằng chừng mực, sẽ giúp ta có được tri
kiến sâu sắc hơn về hiện thực.
“Tầm nhìn hệ thống bắt đầu khi bạn nhìn thế giới qua con mắt của người khác”.
Có
một điều thú vị là, càng nhìn cuộc sống qua cái nhìn hệ thống, càng mở
rộng tầm hiểu biết bao nhiêu, chúng ta sẽ càng thấy mình trở nên khiêm
tốn, thân thiện, dễ thích ứng, biết cảm thông, biết tôn trọng sự đa
dạng, những ý kiến trái chiều, biết lắng nghe với tinh thần đón nhận cởi
mở, khuyến khích mà không “phán xét”. Đây là những điều đã được nghiên
cứu trong “Trí Khôn Hệ Thống” – Systems Intelligence, ngành học ứng dụng
phương pháp tư duy hệ thống vào những hành xử đời sống hàng ngày.
(Chúng
ta sống như những gì mình nghĩ, rồi đến lúc, ta sẽ nghĩ như lối tư duy
mà mình đã theo đó sống và hành xử. Có lẽ ai cũng nhớ câu ngạn ngữ quen
thuộc “gieo tư tưởng gặt hành vi, gieo hành vi gặt thói quen, gieo thói
quen gặt tính cách, gieo tính cách gặt số phận”. Nhắc lại những điều
này, là vì mình muốn nhấn mạnh vai trò quan trọng của tư tưởng và nhận
thức đến cuộc sống của mỗi người.
Trong
ba thứ “thân” (hành động), “khẩu” (lời nói), tâm “ý” (suy nghĩ), nghiệp
được tạo tác từ “thân”, “khẩu” (hành động đã thực hiện, lời đã nói ra)
thường gây ra hậu quả nặng hơn “ý” (chỉ mới là ý nghĩ). Nhưng ý lại được
chú trọng nhiều hơn cả, bởi nó là cội nguồn cho hành động và lời nói)…
2. Thống nhất trong sự đa dạng
Trong
những hệ thống sống nhiều bậc, mỗi bộ phận của nó lại là những hệ thống
nhỏ (holons). Mỗi holon có hai khuynh hướng đối nghịch nhau: (1) hợp
nhất với chức năng là thành phần của một tập thể lớn hơn, và (2) tự
khẳng định để bảo tồn sự tự trị của chúng. Mỗi holon phải khẳng định
“bản sắc” - đặc tính riêng của nó, để thực hiện chức năng của riêng
mình, đồng thời nó cũng phải tuân theo những yêu cầu chung của cái toàn
thể lớn hơn, để cả hệ thống có thể duy trì và tồn tại được. Hai khuynh
hướng này tuy đối nghịch nhưng bổ túc cho nhau và đều cần thiết. Một hệ
thống lành mạnh khi các bộ phận của nó vận hành hài hòa, khi hiện diện
sự cân bằng giữa hai khuynh hướng hợp nhất và tự khẳng định này. Hệ
thống sẽ bị phá vỡ, như ẩn dụ về căn bệnh ung thư, khi một số tế bào ích
kỷ bành trướng giành quyền phát triển cho mình mà không hề quan tâm đến
toàn bộ hệ thống cơ thể, để rồi tự hủy diệt chính nó khi cơ thể suy
sụp.
Sự khuyến khích cạnh tranh hơn là hợp tác
là một trong những biểu hiện chính của khuynh hướng ích kỷ trong xã hội
chúng ta. Nó xuất phát từ cái nhìn sai lạc về tự nhiên của những nhà
Darwin-xã hội thế kỷ 19, những người tin rằng đời sống là một cuộc đấu
tranh sinh tồn (survival of the fittest) và cạnh tranh được xem như
nguồn động lực của nền kinh tế. Họ quá nhấn mạnh vai trò đấu tranh và
mâu thuẫn mà không nhận ra rằng mọi đấu tranh trong tự nhiên đều diễn ra
trong một bối cảnh rộng hơn của sự cộng tác.
Ta
có thể tìm thấy trong tự nhiên vô vàn những ví dụ về sự phụ thuộc và
tương hỗ lẫn nhau. Chim thú họp thành đàn để bảo vệ cho nhau. Phần lớn
sự tương hỗ ấy không đơn giản là hai chiều thuận nghịch mà phức tạp
trong mạng lưới các liên kết chằng chịt. Một hệ thống càng đa dạng, bảo
đảm được nhiều chức năng, càng linh động trước những biến đổi. Chính nhờ
sự đa dạng và phức hợp mà xuyên suốt mạng lưới đời sống của hệ sinh
thái, những nhu cầu khác nhau của các cá thể khác nhau có thể được đáp
ứng. Sự cộng tác hài hòa làm cho các phần tử của hệ thống vận hành phối
hợp nhau nhịp nhàng và dễ dàng ở mọi cấp độ.
3. Tất cả là Một
Chúng
ta kết nối lẫn nhau trên cả phương diện vật chất và ý thức. Mỗi chúng
ta là một phần của những chu kỳ trao đổi liên tục năng lượng, vật chất
và thông tin với thế giới xung quanh mình. Nghiên cứu của các nhà cận
tâm lý học (parapsychologist) cũng đã xác nhận tâm thức có chủ ý của một
người có thể ảnh hưởng đến cảm xúc của người khác hoặc lên vật chất.
Thiên
nhiên trên bình diện vi mô của thế giới lượng tử càng khẳng định tính
thống nhất và sự liên hệ kết nối giữa mọi hiện tượng. “Tính nhất thể của
vạn sự” dưới con mắt của vật lý học hiện đại, đã được Fritjof Capra bàn
nhiều trong cuốn “Đạo của Vật Lý”. Ý nghĩa tâm linh và triết học của nó
không phải là điều gì mới mẻ mà chính là quan điểm bao trùm của những
nền Đạo học phương Đông cổ xưa. Mọi sự vật, biến cố là những bộ mặt khác
nhau, những hiện thân của một thực tại cuối cùng, không thể phân chia. Ý
thức sinh thái sâu xa là ý thức tâm linh. Khi con người thấy mình hòa
nhập với thiên nhiên, với vũ trụ như một cái toàn thể, khi thân và tâm
thống nhất, khi con người vượt ra khỏi bản ngã của mình, để cảm nhận
được tất cả là Một, lúc đó con người đã đạt Đạo và đó chính là cái Chân
Như, Thực Tại cuối cùng.
Tôi là hạt bụi trong
gió, bay đi khắp nơi, say đắm vẻ đẹp diệu kỳ của Tạo Hóa biểu lộ trên
vạn vật. Đời sống là những chuỗi tuần hoàn vô tận, hết đêm rồi đến ngày.
Xuân, hạ, thu, đông, rồi lại xuân…
Tôi là một
con người. Sinh ra trên đời là tôi đã mang nặng ân tình của Mẹ Cha, của
xã hội. Chiếc áo tôi mặc từ mảnh vải của người thợ dệt, công sức của
người thợ may. Hạt cơm tôi ăn chắt chiu từ giọt mồ hôi người nông dân
vất vả trên cánh đồng. Tôi không tồn tại một mình.
Ngụm
nước tôi uống, không khí tôi hít thở, cọng rau con cá tôi ăn, chúng
chuyển hóa thành xương thịt tôi hôm nay. Rồi mai kia khi xác thân này
nằm xuống, cát bụi lại về với cát bụi. Tôi lại là gió, là mưa, là mây
trời, là cành hoa, ngọn cỏ… Hòa mình trong vòng tuần hoàn miên viễn của
tự nhiên đó, tôi thấy mình hiện diện trong tất cả, và chứa đựng tất cả ở
trong tôi.
Tài liệu tham khảo chính