Hiển thị các bài đăng có nhãn Môi trường. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Môi trường. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 1 tháng 1, 2024

Chiếc áo cà sa ở Wat Chak Daeng

Sáng 18/09/2023, từ tòa nhà của Mạng lưới Phật giáo dấn thân quốc tế (INEB) tại Bangkok, chúng tôi di chuyển xuống phía Nam đến Wat Chak Daeng. Wat tiếng Thái có nghĩa là ngôi chùa, đền thờ. Wat Chak Daeng nằm bên dòng sông Chao Phraya thuộc tỉnh Samut Prakan. Ngôi chùa nổi tiếng với những chiếc áo cà sa được làm bằng vật liệu tái chế từ chai nhựa PET. Sợi polyester tái chế từ chai nhựa, trộn với sợi vải cotton và hạt nano kẽm oxit giúp khử mùi, làm áo có tính kháng khuẩn, mềm mại, không nhăn, dễ giặt và nhanh khô.

Ý tưởng tận dụng đồ cũ này, theo lời Sư Thầy trụ trì Wat Chak Daeng, Phra Mahapranom Dhammalangkaro, đã có từ truyền thống xa xưa khi Đức Phật khuyến khích các tăng sĩ tiết kiệm, góp nhặt những mảnh vụn từ bãi rác và nghĩa địa về rồi giặt sạch và chắp vá lại, tự may thành chiếc y cà sa để mặc. [Tìm hiểu thêm tôi mới biết rằng chiếc cà sa, tiếng Phạn là ‘kasaya’, vốn không có nghĩa áo hay y phục mà là ‘bạc màu, hư hoại’. Tôi giật mình nhận ra ẩn dụ sâu xa của ‘kasaya’ hay ‘hoại sắc’, giống như tấm thân vô thường rồi cũng sinh diệt này, để đừng quá dính mắc vào mọi hình tướng hồng trần]… 

Nhưng ngày nay thế thời đã khác, ở những thùng rác bây giờ, cái người ta tìm thấy nhiều nhất là rác thải nhựa. Rác thải nhựa mất hàng mấy trăm năm đến cả ngàn năm để phân hủy. Thậm chí khi phân hủy, hạt vi nhựa thấm vào môi trường, len lỏi vào không khí, vào chuỗi thức ăn, tiềm ẩn nguy cơ sức khỏe, gây ung thư. Rác thải nhựa trôi nổi làm ngạt thở, gây chết sinh vật biển, ô nhiễm đại dương. Rác thải nhựa đã thực sự trở thành một vấn nạn toàn cầu (*). 

Từ cách đây cả hơn chục năm về trước, Sư Thầy trụ trì chùa Chak Daeng đã trăn trở làm sao để giải quyết vấn nạn này.  Mỗi lần nước triều dâng cao, rác thải nhựa từ sông Chao Phraya lại tràn vào chùa. Lúc đó đa phần rác thải nhựa chỉ được đổ bỏ vào bãi chôn lấp, trong khi đốt nhựa cần lò đốt rác tốn kém với công nghệ hiệu quả để xử lý khí độc. Rồi cơ duyên đến, nhân một chuyến đi học tập tại Đài Loan, Thầy được tham quan nhà máy tái chế chai nhựa PET thành sợi vải. Thế là ý tưởng may áo cà sa làm bằng vải tái chế từ chai nhựa đã được ấp ủ, nung nấu. Khi về lại Thái Lan, Thầy đã phải mất hơn 3 năm thử nghiệm. Sau này có thêm sự hợp tác từ công ty Global Chemical, hỗ trợ máy móc và công nghệ, thành phẩm cuối cùng dần dần hoàn thiện. 

Cứ 15 chai nhựa làm được 1 chiếc áo. Quá trình diễn ra qua nhiều công đoạn. Chai PET không màu được làm sạch, phân loại, loại bỏ lớp dán nhãn bên ngoài và nắp nhựa để tái chế riêng, rồi ép thành kiện và gửi đến nhà máy để nghiền và tạo thành sợi tổng hợp. Sợi tổng hợp sau đó được gửi trở lại chùa, dệt thành vải và được cắt may thành áo. Trong chùa có cả một xưởng may, tạo ra nhiều những sản phẩm đa dạng khác như áo thể thao, áo thun, túi vải, nón, chăn mền… Có lần chiếc áo dạ hội từ nhựa tái chế được gửi đến cuộc thi Miss Earth Thái Lan và đã giành giải thưởng. 

Xưởng may tại chùa

Hiện nay, dự án được vận hành như một doanh nghiệp cộng đồng, giúp tạo ra việc làm cho nhiều người dân, đa số là những người phụ nữ nội trợ, người về hưu, và cả người khuyết tật. Giá một chiếc áo cà sa sản xuất tại Wat Chak Daeng dao động từ 1500 - 5000 bath Thái (khoảng từ 1 - 3 triệu VNĐ). Giá cao nhưng nhu cầu luôn cao vì mọi người mong muốn ủng hộ sản phẩm ý nghĩa với môi trường và cộng đồng này.







Các dạng rác thải nhựa khác được tái chế thành vật liệu xây dựng giả gỗ, làm mái nhà, gạch con sâu lát nền. Vật liệu giả gỗ tái chế từ rác thải nhựa không bị phồng, không bắt lửa, không thấm nước, chống mối mọt. Gần đây, cộng đồng hợp tác với công ty Corsair mới thành lập năm 2020 (**), có trụ sở chính tại Thái Lan cho khu vực châu Á và Hà Lan cho khu vực châu  u, để tái chế rác nhựa thành nhiên liệu. Công ty đang mở rộng sản xuất và thu gom rác nhựa, gồm cả các loại túi nylon, bao bì nhựa từ cộng đồng mang lại. Corsair sử dụng công nghệ nhiệt phân cao cấp trong lò phản ứng kín, chuyển hóa chúng thành các dạng nhiên liệu dầu nhiệt phân lỏng, than carbon đen và khí đốt. 

Thầy cùng các sư trong chùa vận động người dân tham gia chiến dịch thu gom chai nhựa, vớt rác trên sông Chao Phraya. Thu nhặt rác mang đến chùa không chỉ là để tái chế, mà sâu xa, nó nhắc nhở mọi người có trách nhiệm hơn với sự tiêu thụ của mình, giảm bớt việc tạo ra rác thải. Trong khi ở những chùa khác, người ta cúng dường thực phẩm và quần áo thì tại Wat Chak Daeng, người dân có thể cúng dường rác thải nhựa! Mọi người khắp nơi gửi các chai nhựa PET đến Wat Chak Daeng, để chúng được tiếp tục một đời sống hữu ích mới.

Chưa hết, một mảng quan trọng khác ở Wat Chak Daeng là tái chế rác thực phẩm thành phân hữu cơ. Rác thực phẩm, thức ăn thừa thu gom từ cộng đồng trộn với lá cây gom từ việc quét sân mỗi ngày ở chùa được đưa vào hệ thống máy ủ phân to bằng nguyên cái nhà, tạo ra phân bón dạng lỏng và rắn từ quá trình lên men vi sinh được tối ưu hóa trong thời gian ngắn. Như thế, thức ăn thừa hôm nay được chuyển hóa thành phân để trở lại nuôi đất, góp phần vun trồng nên hoa trái cho mai sau. Khí methane sinh ra được thu chứa trong các thùng kim loại. Khí sinh học này được kết nối với van dẫn vào bếp, dùng để nấu ăn. Tất cả đều được tận dụng, không có gì bỏ đi cả.


Chùa Chak Daeng trở thành một trung tâm giáo dục, nâng cao nhận thức môi trường trong cộng đồng, cũng như đào tạo, chia sẻ kinh nghiệm quản lý rác thải. Thành công của Chak Daeng đã tạo nên một ảnh hưởng tốt đẹp lan tỏa. Nhiều trường học, tổ chức, cơ quan chính phủ đã gửi người đến tham quan học tập các mô hình xử lý rác thải tại đây. 

Hôm đó, chúng tôi được thực hành làm chậu cây nhỏ từ xi măng và vật liệu xốp, sau đó vẽ trang trí. Và tại xưởng tái chế, chúng tôi chia thành 2 nhóm, một nhóm lọc, tháo nhãn dán trên vỏ chai và một nhóm gắn dây kẽm nối các chai với nhau. Chúng tôi cũng được xem các video về chùa và nghe các Sư Thầy nói chuyện. Thầy nhấn mạnh giá trị của cây xanh, nhất là khi với số lượng lớn, chúng giúp giải tỏa stress, là nơi trú ẩn cho động vật, tạo bóng mát, giúp giảm nhiệt độ môi trường vi khí hậu, cung cấp oxy, lọc khí. Bộ rễ của chúng có tác động như một bờ kè, giúp giữ nước cho mùa khô. 

Chia sẻ kinh nghiệm, Thầy nói 3 nhóm cần hợp tác, làm việc cùng với nhau là cộng đồng, bắt đầu từ chính gia đình mỗi chúng ta (1), chính phủ (2), và doanh nghiệp/công ty tái chế (3). Và quan trọng nhất là thay đổi tư duy, nâng cao nhận thức mọi người về các vấn đề môi trường cũng như khuyến khích giải pháp sáng tạo cho chúng. Thầy khuyên hãy cứ bắt đầu, nếu có thất bại thì đừng bỏ cuộc, mà đứng dậy, rút ra bài học rồi lại đi tiếp. Ba khía cạnh trong thực hành Phật giáo Văn - Tư - Tu mà Thầy nói đến, tôi thấy đều có thể áp dụng cho mọi lĩnh vực đào tạo, rèn luyện. Đó chính là vòng tròn lắng nghe, xem đọc, học hỏi lý thuyết, quan sát (Văn), sau đó suy tư, chiêm nghiệm, đúc kết (Tư), rồi áp dụng, làm, thực hành trong đời sống (Tu) và tiếp tục quan sát, đúc kết, ứng dụng, nhờ đó mà liên tục cải tiến. 

Việc dọn dẹp môi trường bên ngoài cho sạch sẽ và tái chế rác thải ngẫm ra cũng không khác mấy với sự tu tập, thanh luyện nội tâm. Chánh niệm, tham thiền là nghệ thuật nhận diện và chuyển hóa những rác thải hay chất độc của tâm, biến chúng thành những phẩm tính tích cực. Khi tâm trí trong sạch thì hạnh phúc chân thật vốn luôn hiện hữu sẽ được hiển lộ.

Viết những dòng này ngày cuối năm, tôi nhớ đến câu “Không bùn, không sen” của Sư Ông. Thương chúc tất cả chúng ta sẽ được chuyển hóa, biến đổi thành một phiên bản mới, tốt đẹp hơn, an vui hơn trong năm mới! 💓

---

(*) Theo báo cáo từ trang World Population Review năm 2021, trong top 10 các nước thải rác nhựa gây ô nhiễm đại dương, Philippines đứng đầu bảng với 35% lượng rác thải nhựa đại dương toàn cầu, còn Việt Nam đứng thứ 8 và Thái Lan đứng thứ 10. Đáng chú ý top 10 này đa số là các quốc gia Đông Nam Á, có bờ biển dài, lượng mưa lớn và hệ thống quản lý chất thải kém. Cũng theo trang này, những quốc gia sản xuất hoặc tiêu thụ nhiều nhựa nhất không hẳn là những quốc gia thải rác nhựa ra đại dương nhiều nhất, nhờ cơ chế quản lý, hệ thống phân loại và tái chế tốt. 

Link: https://worldpopulationreview.com/country-rankings/plastic-pollution-by-country 

(**) Năm 2021, Corsair công bố chương trình CSR (trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp) về tín chỉ plastic (plastic credit), được vận hành trên nền tảng Ethereum blockchain, như một phương thức mới mẻ, sáng tạo và thuận tiện trong ghi nhận việc làm sạch mội trường và chuyển hóa rác thải nhựa. Tương tự như tín chỉ carbon, mỗi tín chỉ plastic đại diện cho một lượng rác thải nhựa xác định đã được chuyển hóa, không còn gây ô nhiễm môi trường.

Link: https://corsairnow.com 

P/S: Tình cờ, tôi mới biết một ngôi chùa đặc biệt khác ở Thái Lan, Wat Pa Maha Chedi Kaew, được xây dựng với 20 tòa nhà làm từ hàng triệu vỏ chai bia cũ. Nó gợi nhớ đến thời gian làm dự án ở Sóc Trăng hơn 10 năm trước. Sóc Trăng có nhiều chùa Khmer đẹp mà mỗi lần có bạn bè đến thăm chúng tôi hay dẫn đi chơi. Gần văn phòng chúng tôi cách khoảng 8 km có ngôi chùa Khmer hay được gọi là Chùa Chén Kiểu được dát bằng những mảnh sứ từ chén kiểu rất đẹp ngày xưa.




Thứ Bảy, 23 tháng 12, 2023

Trở lại Pathom Asoke

Tôi đến Pathom Asoke lần đầu tiên hồi cuối năm 2019, trên hành trình VCIL Travel School chủ đề Paradigm Shift - New Story. Chuyến đi ròng rã suốt gần một tháng trời đưa chúng tôi tham quan, học tập ở những môi trường giáo dục thay thế và cộng đồng tỉnh thức khác nhau tại Thái Lan và Ấn Độ. Mỗi nơi chúng tôi đi qua đều chứa đựng những câu chuyện truyền cảm hứng và độc đáo theo những cách riêng. Điểm chung của tất cả những nơi đó là ý thức cao về sinh thái, tâm linh và triết lý sống nhân văn, hướng đến sự phát triển bền vững, tái tạo.

Trong hành trình năm ấy, có hai nơi cho tôi cảm giác như chạm vào Utopia - xã hội không tưởng, là ngôi làng Phật giáo Pathom Asoke ở Thái Lan và thành phố bình minh (the City of Dawn) Auroville, Ấn Độ. Ở đó, người ta không dùng tiền, không có sở hữu cá nhân; giáo dục, y tế, nhà ở và các nhu cầu cơ bản đều được đáp ứng. Mọi người được tự nguyện lựa chọn làm công việc mình thích. Có lẽ nhờ ý thức tự giác và tinh thần tập thể cao, sự chú trọng đời sống tinh thần, nhu cầu vật chất chỉ cần vừa đủ nên “lý tưởng XHCN” đã được hiện thực hóa trước mắt, ngỡ ngàng, thú vị. 

Nếu Auroville giống như một “thiên đường” đa dạng sắc màu quốc tế, mang hơi hướng viễn cảnh tương lai, thì Pathom Asoke lại có chút gì đó đơn sơ, nhuốm màu hoài niệm khiến tôi như thấy mình xuyên không, lạc vào một thời quá khứ xa xưa, làng mạc thôn dã, yên bình, thuần hậu, chân chất.

Tháng 9 năm 2023, tôi trở lại Pathom Asoke sau gần bốn năm trời nhiều biến động của bản thân và cả đại dịch của thế giới. Ngôi làng vẫn vậy, có lẽ một chút vắng vẻ hơn. “Trở lại Pathom Asoke” không chỉ hàm ý thăm lại người xưa chốn cũ mà còn gợi nhắc tôi quay về với những giá trị cốt lõi, giản dị của thực tập Phật giáo, và quay về với đời sống bên trong nội tâm mình.

Pathom Asoke thuộc tỉnh Nakhon Pathom, là một trong 9 trung tâm lớn rải rác khắp Thái lan của phong trào phục hưng Phật giáo Santi Asoke, được khởi xướng bởi Sư Bhodirak. Sư Thầy sinh năm 1934, có cha người gốc Hoa và mẹ người Thái. Thời trẻ, với nghệ danh Rak Rakphongs, Thầy từng ở trên đỉnh vinh quang khi làm việc cho đài truyền hình Thái Lan, nổi tiếng trong vai trò người sản xuất và dẫn các chương trình giải trí và giáo dục. Thầy viết nhiều truyện ngắn, bài báo, làm thơ và còn là một nhà soạn nhạc tài năng, sáng tác nhiều bài hát và nhạc phim được yêu thích. Thế mà Thầy đã rời bỏ công việc và tất cả những hào quang của đời sống thế tục đó năm 35 tuổi, và vài tháng sau Thầy xuất gia, gây sốc cho tất cả những người thân và bạn bè. Người ta kể rằng từ một trải nghiệm tâm linh đặc biệt khiến Thầy thức tỉnh với sứ mệnh và “cuộc đời như mở ra trước mắt”. 

Không hài lòng với lối sống thừa mứa, thực hiện các phép thuật, bùa chú của một số tu sĩ bấy giờ, Thầy đã khởi xướng nhóm Santi Asoke như một cuộc chấn hưng, quay về bám sát với các thực hành căn bản gốc rễ của Phật giáo, ăn chay, sống giản dị, chuyên cần, tự lực, loại bỏ các hủ tục mê tín. Tính cách mạng triệt để và quyết liệt trong đường lối của Thầy đã từng phải đối mặt với những chỉ trích từ nhóm Phật giáo chủ đạo Thái Lan trong nhiều năm liền. Tuy nhiên, “vàng thật không sợ lửa”, uy tín của Thầy càng thêm mạnh mẽ bởi lợi lạc lớn lao từ sự kiên định, nghiêm túc thực hành giới đức mà những người theo Thầy đã nhận được.

Từ nhóm Asoke này, Sư Thầy Bhodirak đã đưa vào mô hình Bunniyom, nơi các tu sĩ và Phật tử cùng chung sống trong không gian cộng đồng như những làng sinh thái, có đền chùa, trường học, ruộng vườn. Từ ‘Bun-niyom’ là lối chơi chữ, với ‘bun’ có nghĩa là ‘công đức’ đối lại với ‘thun-niyom’ là ‘chủ nghĩa tư bản’. Đối với người dân Asoke, đời sống không phải để tích tụ tài sản vật chất cho riêng mình hay mưu cầu danh vọng, quyền lực và địa vị thuộc thế gian, mà chú trọng vào phát triển “tài sản” tinh thần, tích lũy công đức qua hành thiện, tạo phước cho đời.

Triết lý Bunniyom nhấn mạnh việc nuôi dưỡng Tứ Vô Lượng Tâm (Từ Bi Hỷ Xả), tôn trọng sự sống và phi bạo lực. Tất cả các cư dân trong cộng đồng đều giữ 5 giới, ăn chay, và cố gắng tự chủ nguồn lương thực, rau củ quả nhiều nhất có thể. Nhóm Asoke là một trong những nơi tiên phong tại Thái Lan khởi xướng thực hành nông nghiệp hữu cơ và hướng đến đời sống tự cung tự cấp, không sử dụng thuốc trừ sâu hay phân bón hóa học, tôn trọng sự sống ngay cả với loài côn trùng nhỏ bé. Nông nghiệp hữu cơ lành sạch, không sử dụng hóa chất độc hại, vì thế không gây tổn hại cho bản thân chính người nông dân, người sản xuất, người tiêu dùng và cả các chúng sinh khác trong môi trường. 

Các trung tâm và cộng đồng Asoke hoạt động theo cùng triết lý nhưng mỗi nơi có những đặc trưng, thế mạnh riêng và cùng hỗ trợ, bổ túc cho nhau trong mạng lưới. Trung tâm Asoke tại Bangkok đóng vai trò như trụ sở truyền thông và thương mại chính cho toàn mạng lưới. Còn Pathom Asoke nổi bật với việc trồng và sản xuất dược liệu từ thảo mộc. Pathom Asoke có cả một nhà máy lớn, được đầu tư chuyên nghiệp bài bản các thiết bị và công nghệ, chuyên nghiên cứu và sản xuất các dược liệu, trà, mỹ phẩm tự nhiên từ thảo mộc. Làng không trồng lúa nên gạo sẽ được cung cấp từ cộng đồng Asoke cách đó hơn 60 km và các nhóm trong mạng lưới nông nghiệp tự nhiên.

Pathom Asoke được thành lập từ năm 1974, nằm trên khu đất hiện nay có diện tích khoảng 16 ha (100 rai Thái), phủ bóng cây xanh mát, có hồ nước và suối chảy qua. Trung tâm làng là đền chùa và trường học, giống như khu vực quản lý hành chính, có thư viện, đài phát thanh riêng truyền thông trong nội bộ cộng đồng. Các tu sĩ sống đơn giản với bình bát, chiếc chiếu manh và vài bộ áo trong những căn chòi nhỏ bằng gỗ lợp lá, cạnh khu vực đền thờ. Tu sĩ đóng vai trò quan trọng như những người lãnh đạo tinh thần trong cộng đồng. 

Pathom Asoke có trường nội trú cho học sinh cấp 2, 3 và trường nghề, tất cả đều miễn phí. Các em học sinh mặc đồng phục cùng màu xanh, đi chân đất như một thực hành để rèn sự chú tâm. Các em nữ cắt cùng kiểu tóc ngắn. Thầy cô giáo cũng là những người tình nguyện. Học sinh ở trường đa số được gửi đến từ những nơi khác. Triết lý giáo dục ở Asoke chú trọng nhiều vào việc phát triển nhân cách hơn là chỉ cung cấp tri thức, các em được rèn luyện để trở thành những người tử tế, thiện lành, chăm chỉ, kỷ luật, vị tha, có tinh thần tự chủ, khả năng lãnh đạo, biết cách hợp tác trong làm việc nhóm, cách trình bày ý kiến, thảo luận, thương thuyết các giải pháp cho những xung đột, chịu trách nhiệm cho hành xử của mình và có thể tự lực ở mọi nơi. Giáo lý và đạo đức Phật giáo là một phần quan trọng trong chương trình học. Các em thức dậy từ sáng sớm, theo chương trình học vào buổi sáng, tự phân công nấu ăn và buổi chiều thì lao động theo nhóm trong các xưởng hay vườn của cộng đồng. Sự học không chỉ từ sách giáo khoa mà còn đến từ công việc. Ở mọi nơi làm việc, những người lao động là những người thầy của các em. Các em được rèn luyện các kỹ năng sống, làm vườn, nấu ăn, dọn dẹp, sản xuất, chăm sóc, sữa chữa máy. Mỗi tuần một lần, các em có buổi phản tư cùng nhóm, xem xét lại về việc thực hành, giữ giới của bản thân.

Làng có xưởng làm đậu hũ và nước tương riêng, rồi trạm sản xuất than củi, các vườn rau hữu cơ, trang trại nấm cung cấp thực phẩm cho cộng đồng. Nước tương hữu cơ ở Pathom Asoke ngon tuyệt vời! Nhà hàng của Pathom Asoke vừa được xây mới khang trang. Khách đến ăn được phát phiếu và chọn món ở các quầy. 

Làng có trạm y tế riêng mà cô bác sĩ ở đó nói vui là ít có việc để làm. Vì mọi người ở đây đều hoạt động  tích cực, ăn đồ lành sạch, môi trường thân thiện, xanh đẹp, bình an nên ai cũng vui khỏe, ít bệnh tật. 

Mọi người đều làm việc và học được rất nhiều qua chính quá trình làm việc, và đó mới là điều quan trọng, chứ không phải thành quả. Làm việc với tinh thần phụng sự và trao tặng giúp ta phát triển lòng vô kỷ, vị tha, mang lại niềm vui và không phí thời gian, năng lượng vào sự chỉ trích. Tất cả mọi công việc tại làng đều được làm dựa trên tinh thần tình nguyện, không lương. Người ta làm việc trong làng như đi làm công quả trong chùa. Mọi người tự do lựa chọn hay thay đổi công việc của mình, với ý thức tự giác và tự quản cao. Thường các công việc không đòi hỏi kỹ năng nhiều bởi sẽ luôn được làm cùng với nhóm và được hỗ trợ từ mọi người trong nhóm. Làm việc nhóm đòi hỏi sự bao dung, nhẫn nại, từ bi và tập trung, chánh niệm.

Một số công việc chuyên môn cần phải thuê người từ bên ngoài thì sẽ dùng quỹ trung tâm để trả với chi phí thấp. Mọi thứ đều được tận dụng, tuần hoàn để hạn chế rác thải ít nhất có thể. Rác thải được phân loại theo các nhóm khác nhau. Rác hữu cơ được ủ làm phân bón; giấy, thủy tinh và kim loại được gửi đi tái chế; một số khác được đốt. 

Cửa hàng ở tất cả các trung tâm Asoke đều vận hành theo triết lý trao tặng và phụng sự, không nhấn mạnh vào lợi nhuận nên hàng hóa vừa rẻ vừa chất lượng. Món hàng được làm từ nguyên vật liệu lành sạch và từ tâm thiện, tình thương của người sản xuất, như một sự cúng dường và trao tặng nồng ấm đến người mua, chứ không phải là một giao dịch đổi chác lạnh lẽo vô tình. Thế nên, món hàng được bán hoặc với mức lời thấp, hoặc với giá hòa vốn, hoặc với giá thấp hơn chi phí sản xuất, hoặc được trao tặng miễn phí! 

Các nguồn lực chính trong cộng đồng đều thuộc sở hữu tập thể và có một quỹ trung tâm cung cấp tài chính cho các dự án. Những người thực hành theo phong trào Asoke nhưng sống và làm việc bên ngoài cộng đồng đều thường xuyên đóng góp. Người dân Asoke được chăm lo toàn bộ việc sinh sống, ăn ở, giáo dục, y tế… suốt cả vòng đời từ lúc sinh ra đến tận khi chết đi. 

Cuối làng là tòa nhà hỏa táng, nằm đằng sau bóng một cái cây to thật đẹp trong một khung cảnh yên bình. Chưa được chứng kiến, tôi chỉ nghe kể rằng đám tang ở đây cũng nhẹ nhàng, tĩnh lặng, như một sự chúc phúc cho người ra đi đến một hành trình mới, mà biết chắc rằng sẽ tốt đẹp bởi cả cuộc đời sống thiện lành đã trải qua ở nơi này. 

Năm 2019, chúng tôi đến Pathom Asoke đúng vào ngày 5 tháng 12, kỷ niệm sinh nhật Vua Rama IX (1927-2016), một bậc minh quân được nhân dân Thái Lan tôn kính và yêu quý, người đã khởi xướng triết lý Kinh Tế Vừa Đủ (Sufficiency Economy Philosophy), và đã làm việc hết mình vì người dân. Cả làng tổ chức lễ hội. Thức ăn chay đủ loại được phát miễn phí ở các quầy. Người ta cầu nguyện rồi hát múa trong những chương trình văn nghệ nhiều màu sắc. Tôi nhớ người tham dự còn được tặng cây mang về, thật ý nghĩa. Điều đó làm cho mình có trách nhiệm và niềm vui trong việc chăm sóc và nhìn ngắm một sự sống lớn lên.

Tự nhiên nghĩ về Thái Lan và tôi thấy họ thật may mắn có những nhà lãnh đạo hiền minh, tài đức như Vua Rama IX, Sư Thầy Bhodirak của Santi Asoke, và Ajarn Yak của mạng lưới nông nghiệp tự nhiên. Tôi mơ một ngày Việt Nam cũng sẽ có được những cộng đồng tỉnh thức, những làng sinh thái như thế, nơi mà người ta sống tử tế, thiện lành với nhau, với thiên nhiên...












Thứ Hai, 9 tháng 10, 2023

Green Power House — Ngôi nhà năng lượng xanh

THE NEED TO GROW (2018)

Ngay sau chuyến đi VCIL Travel School tại Thái Lan về triết lý kinh tế vừa đủ và nông nghiệp tự nhiên (với nhiều điều hữu ích sẽ được kể từ từ trong những post khác), tôi tình cờ được thu hút tới và tìm xem bộ phim tài liệu đạt nhiều giải thưởng ở các liên hoan quốc tế, “The Need to Grow”. Chữ “grow” ở đây thú vị bởi nó hàm chứa hai lớp ý nghĩa, vừa là sự phát triển, vừa là sự gieo trồng. [Bạn có thể xem phim tại link sau https://grow.foodrevolution.org].


Việc lạm dụng hóa chất và độc canh trong nền nông nghiệp công nghiệp hóa hiện nay đang phá vỡ sự sống các sinh vật trong đất, làm đất ngày càng bạc màu và gây suy giảm đa dạng sinh học, mất cân bằng sinh thái. Đa dạng sinh học dẫn tới sự trù phú. Đa dạng về hạt giống là căn cơ cho an ninh lương thực. Khi đa dạng sinh học giảm thì lại càng phải cần nhiều phân bón tổng hợp, thuốc trừ sâu, diệt cỏ hơn để đạt được cùng sản lượng trước đó và diệt trừ sâu rầy, mà vốn tự nhiên lẽ ra không phải là vấn đề trong một hệ sinh thái lành mạnh. Ngày càng phụ thuộc hơn vào hóa chất, chúng ta đang đầu độc đất, làm đất chết, tăng tốc xói mòn, ô nhiễm môi trường và cũng tự đầu độc chính mình. Thực phẩm từ canh tác lạm dụng hóa chất không những chẳng còn nhiều dinh dưỡng mà còn tiềm ẩn nguy cơ của nhiều căn bệnh thời đại.

Tốc độ mất đất đang diễn ra rất nhanh chóng, gấp nhiều lần so với tốc độ đất được tái tạo lại. Nếu cứ tiếp tục với tốc độ này, thế giới sẽ đi vào thảm họa, biến đổi khí hậu, lũ lụt, hạn hán, khan hiếm thực phẩm. Mọi thứ phát triển với tốc độ hàm số mũ chứ không tuyến tính, và nếu chúng sụp đổ, chúng cũng sẽ sụp đổ với tốc độ hàm số mũ. Tương lai thế giới sẽ phải, hoặc là hướng về những cộng đồng sống thuận tự nhiên, canh tác hữu cơ như mô hình các làng sinh thái, vườn rừng, rừng thực phẩm (food forest), kinh tế tuần hoàn; hoặc là nhân loại sẽ tự mình đi đến chỗ diệt vong. 

“Chúng ta càng chăm lo cho sự đa dạng sinh học, chúng ta càng chăm lo cho đất thì chúng ta càng thực sự trồng được nhiều thực phẩm.” ~ Vandana Shiva 

Ưu tiên hàng đầu hiện nay là cải tạo lại đất. Chúng ta không thể nuôi dưỡng thế giới bằng đất chết. Chúng ta cần bắt đầu chuyển đổi từ tư duy dựa trên sự chết chóc đến nền kinh tế dựa trên sự sống. Sự khác biệt giữa sự sống và cái chết, giữa điêu tàn và trù phú, giống như sự khác biệt giữa bụi và đất. Chúng ta cần áp dụng quá trình sinh học tự nhiên và tăng tốc tái tạo đất. Không có một giải pháp độc nhất nào, mà nhiều nhiều những giải pháp nhỏ, tập hợp lại cùng nhau sẽ thực sự dẫn đến chuyển biến xã hội. Nhưng cần có ý chí của mọi người, và thời điểm đã đến rồi.

Chỉ một nắm đất trong bàn tay có thể chứa đựng số vi sinh vật nhiều hơn dân số con người trên hành tinh. Toàn bộ chuỗi thức ăn và sự tồn tại của chính chúng ta có được là nhờ hàng tỉ tỉ những sinh vật nhỏ bé này, sinh sống ngay dưới chân chúng ta. Không cày xới để hạn chế phá vỡ các hệ thống vi sinh vật đất, luôn che phủ đất để giảm bốc hơi, và làm phân compost, tất cả những phương pháp này giúp giữ nước và làm giàu cho đất. Chúng giúp gia tăng các hợp chất humic, những chỉ thị quan trọng của đất khỏe. Các hợp chất humic , được hình thành từ phân hủy sinh học của thực vật chết, hỗ trợ dòng dưỡng chất thiết yếu cho cây trong cấu trúc đất, giúp đất màu mỡ, phì nhiêu. Acid humic tích lũy trong đất qua thời gian giúp đất tăng khả năng giữ chất dinh dưỡng. Khi cây hấp thụ CO2, carbon được cung cấp cho vi sinh vật qua bộ rễ. Bộ rễ cô lập carbon trong khí quyển vào đất. Do đó, đất khỏe có thể góp phần lớn vào việc cân bằng khí nhà kính trên hành tinh. 

Những nguyên lý hoạt động hài hòa với thiên nhiên này được biết đến như là nền nông nghiệp tái tạo (regenerative agriculture). Bằng việc tạo ra hệ thống thực phẩm lành mạnh và giàu dinh dưỡng, nông nghiệp tái tạo không chỉ nuôi dưỡng thế giới mà còn là niềm hy vọng của hành tinh nhằm chủ động đảo ngược hiện trạng biến đổi khí hậu. Việc hồi phục, gia tăng sức khỏe cho đất thực sự như một mũi tên trúng nhiều đích, nó đồng thời giải quyết gần như nhiều vấn đề môi trường khác. Bộ phim và cả chuyến đi học tập tại Thái Lan đưa ra cùng một thông điệp chung về tầm quan trọng của đất và sự khỏe mạnh của đất đối với nông nghiệp và cả hệ thống thực phẩm: “hãy tập trung vào nuôi dưỡng đất, rồi để đất nuôi cây”, chứ không phải tập trung vào nuôi cây như cách bón phân hóa học hiện nay. 



Khác với những ý kiến rằng canh tác hữu cơ cho năng suất thấp, bộ phim đề cập đến nghiên cứu dài hơn 30 năm đã minh chứng rằng nông nghiệp hữu cơ có thể đọ được hoặc thậm chí vượt trội hơn năng suất canh tác thông thường, giàu dưỡng chất hơn, trong khi đó còn giảm 35% phát thải khí nhà kính, sử dụng 45% ít năng lượng hơn và tái tạo đất thay vì gây thoái hóa đất như canh tác thông thường với phân bón hóa học và hóa chất diệt côn trùng. Các nghiên cứu cũng cho thấy rằng đất càng được quản lý một cách toàn diện thì càng thực sự trồng được nhiều thực phẩm hơn.

Bộ phim kể về ba câu chuyện truyền cảm hứng của ba nhân vật chính nỗ lực mang lại những giải pháp cho cuộc cách mạng hệ thống thực phẩm: Alicia - nhà hoạt động môi trường chỉ mới 8 tuổi đấu tranh chống thực phẩm biến đổi gen và nâng cao nhận thức về thực phẩm hữu cơ; Eric Cutter - chuyên gia nông nghiệp tái tạo mang lại giải pháp trong không gian nhỏ của đô thị nhưng cho năng suất cao với các hộp rau đặt thẳng đứng chứa compost giàu dinh dưỡng, sử dụng ít nước, ít phân bón hơn so với canh tác thông thường; và Michael Smith - nhà khoa học phát minh Green Power House, tòa nhà được thiết kế dùng năng lượng mặt trời và tảo để xử lý chất thải nông nghiệp tạo ra than sinh học (biochar) và chất kích thích sinh học dạng lỏng thúc đẩy quá trình tái tạo đất. 

Hành trình của những con người tuyệt vời và đầy nhiệt huyết này không hề dễ dàng khi phải đối mặt với những trận chiến khó khăn để thuyết phục các ngành công nghiệp và chính phủ cho phổ biến rộng rãi ý tưởng của mình. Họ đã có lúc thất bại, hay gặp cả tai nạn như việc toàn bộ tòa nhà Green Power House từng bị cháy rụi. Bất chấp những thử thách đó, họ đã không bỏ cuộc và tiếp tục lan tỏa những điều tốt đẹp. 

Cả ba nhân vật đều thật đáng được trân quý như những người hùng của cuộc cách mạng thực phẩm! Tôi muốn nói thêm một chút về Michael Smith và phát minh xuất sắc, quá ấn tượng của ông.

GREEN POWER HOUSE (NGÔI NHÀ NĂNG LƯỢNG XANH)

Với Green Power House, sáng chế có tiềm năng biến đổi thế giới (game-changing technology), một kết hợp tuyệt vời giữa công nghệ tiên tiến và trí tuệ sinh thái của tự nhiên, Michael Smith được ví như thiên tài Nichola Tesla thời hiện đại. Tầm nhìn xa rộng phi thường, những suy tư minh triết sâu sắc và trăn trở đầy tâm huyết của ông trong phim thực sự chạm đến trái tim, không khỏi làm chúng ta xúc động. Ông như một vị thiên sứ đã mang đến cho nhân loại đang khủng hoảng trên hành tinh này một giải pháp cứu rỗi trái đất, giải quyết đồng thời nhiều vấn đề môi trường, nông nghiệp và năng lượng tái tạo.



Tòa nhà vòm có hình dạng kim tự tháp lục giác Green Power House là một hệ thống thông minh tự động (intelligent self-management system) khép kín, tích hợp công nghệ kỹ thuật số và AI vận hành các bể sinh học nuôi tảo, kết hợp với thiết bị nhiệt phân, tạo ra đồng thời điện năng và chất giúp tăng tốc quá trình tái tạo đất là than sinh học và chất kích thích sinh học hữu cơ dạng lỏng. 

The Dragon - Con Rồng

Nối với tòa nhà vòm lục giác là hệ thống nhiệt phân hiện đại được gọi là Con Rồng (The Dragon). Khi sinh khối là các phế phụ phẩm nông nghiệp đi vào Con Rồng, nó sẽ được nung lên đến gần 1000 độ F (538 độ C). Điều kiến yếm khí, không có oxy, ngăn chặn sự đốt cháy, cho ra một cấu trúc carbon ổn định, tương tự như than củi (charcoal). Hoàn toàn độc lập, không gắn với lưới điện quốc gia (off-grid), nhiên liệu mà Green Power House sử dụng chỉ là năng lượng mặt trời và sinh khối chất thải nông nghiệp. Nhiệt tạo ra, vốn là sản phẩm phụ từ hoạt động của Green Power House, đủ cung cấp điện cho 100 ngôi nhà mỗi ngày hoặc cho nhà kính có thể trồng thực phẩm hữu cơ quanh năm ở mọi vùng khí hậu.


Biochar - Than sinh học

Than sinh học đang nổi lên như một trong những giải pháp tốt nhất cho vấn đề biến đổi khí hậu bởi việc tạo ra nó làm cô lập carbon; carbon thay vì phát thải vào không khí sẽ được lưu trữ trở lại vào trong đất. Có cấu trúc carbon cực kỳ bền vững với vô số các lỗ rỗng, tạo ra diện tích bề mặt lớn trong một không gian nhỏ, than sinh học có khả năng hấp thụ cao. Cấu trúc này là nền tảng tối ưu cho sự phát triển của các vi sinh vật có lợi trong đất, giúp nâng cao lượng mùn, tăng khả năng giữ nước, giữ chất dinh dưỡng, tạo ra các không gian cho không khí và vi sinh vật đất đi vào, từ đó giúp tái tạo đất và tăng cường sức khỏe của đất canh tác.


Green Power House có thể cố định trên 1 tấn carbon mỗi ngày, tương đương với khả năng hàng ngàn cái cây để làm công việc tương tự.

Công nghệ tảo thủy sinh - Algae Aqua Culture Technology

Các bể sinh học là hệ thống tự điều chỉnh (self-regulating system). Tảo là một trong những sinh vật tạo ra vật chất hữu cơ nguyên sơ trên bề mặt hành tinh và có khả năng sinh sôi rất nhanh chóng, nó giàu dinh dưỡng và có hàm lượng năng lượng cao. Khí carbonic được liên tục cung cấp từ Con Rồng cho các bể nuôi tảo. Tảo được thu hoạch với khối lượng lớn nhanh chóng mỗi ngày. Thông qua quá trình chuyển hóa sinh học, tảo trở thành phân bón giàu chất dinh dưỡng hữu cơ, kết hợp cùng với than sinh học, tạo ra một chất kích thích có thể giúp tái tạo đất mạnh mẽ. 


Methan, sản phẩm phụ của quá trình chuyển hóa tảo được đưa trở lại vào Con Rồng cung cấp nhiệt năng và xử lý tiếp tục phế thải sinh khối từ nông nghiệp. 

Như vậy, trong mỗi thành phần của Green Power House, đầu ra của bộ phận này trở thành đầu vào của bộ phận khác, tạo nên một hệ thống thực sự khép kín, tự vận hành, không chất thải và còn giúp cố định carbon.

Kỳ diệu là chỉ trong vòng 4 - 5 ngày, Green Power House có thể làm được điều mà thiết bị bình thường phải mất cả tháng, và tự nhiên có thể mất đến hàng trăm năm để chuyển hóa! Việc cô lập carbon hay chuyển hóa tảo, tất cả đều là những quá trình tự nhiên trong một vòng tuần hoàn khép kín và chìa khóa đơn giản chỉ là việc tìm ra cách gia tốc nó. Công nghệ này mở ra cơ hội tuyệt vời thực sự có thể làm thay đổi cách chúng ta sống, quay trở lại với các quá trình tự nhiên, vốn không có rác thải (zero waste).

Green Power House duy trì bên trong nó kiểu khí hậu nhiệt đới, có thể trồng được cả chuối và dứa, trong khi mùa đông ở bang Montana, nơi đặt tòa tháp vòm này, có lúc chạm ngưỡng âm 20 độ F (- 29 độ C). Hãy tưởng tượng sẽ lợi ích như thế nào khi chúng ta thiết lập được các Green Power House như thế trên khắp thế giới, giúp xử lý rác thải để cung cấp năng lượng cho cộng đồng, cung cấp thực phẩm tươi ngon, đảo ngược tình trạng biến đổi khí hậu, tái tạo đất gần như ở bất kỳ môi trường nào. Điều này cuối cùng dẫn tới sự độc lập về năng lượng, an ninh lương thực và tự chủ về thực phẩm.



Chủ Nhật, 11 tháng 6, 2023

Singapore và câu chuyện quy hoạch đô thị

 


Tính đến thời điểm hiện tại, hơn nửa dân số thế giới đang sinh sống trong các đô thị. Những mặt trái của quá trình đô thị hóa trên toàn cầu đã được nói đến nhiều, ô nhiễm môi trường, tiếng ồn, tắc nghẽn giao thông, vấn nạn rác thải... Một nơi sống lý tưởng với riêng cá nhân tôi, có lẽ sẽ giống một làng quê hay vườn rừng hơn, “nơi bình yên chim hót”, trong một cộng đồng tỉnh thức, gắn kết, có đời sống tinh thần phong phú và sâu sắc. 

Tuy vậy, tôi không thể phủ nhận những ưu việt của đô thị như là chốn tụ hội tri thức, tập trung những sinh hoạt văn hóa sáng tạo, hiện đại, đổi mới và thú vị. Thực ra, thành phố và thiên nhiên không nhất thiết phải loại trừ lẫn nhau, nhất là khi đô thị được quy hoạch tốt, hướng đến sự phát triển bền vững và tái tạo. [Nói đến đây làm tôi nhớ Đà Lạt và thấy tiếc quá, bởi Đà Lạt thiên nhiên thơ mộng trong ký ức tuổi thơ của tôi đã không còn. Một Đà Lạt từng được người Pháp quy hoạch với ý tưởng “thành phố trong rừng - rừng trong thành phố”].

Quy hoạch đô thị phức tạp bởi nó liên quan đến nhiều nhân tố luôn biến động và việc đáp ứng cho nhu cầu đa dạng của số lượng lớn con người. Nhà quy hoạch cần có tầm nhìn xa ở tương lai, nếu không chúng ta sẽ cứ phải luôn chạy đuổi theo các nhu cầu của hiện tại. Bài toán quy hoạch đô thị đòi hỏi các chuyên môn liên ngành, đa ngành, cần sự hợp tác chung tay giải quyết của các chuyên gia từ nhiều lĩnh vực khác nhau. Một đô thị được quy hoạch tốt có thể tác động hữu ích lên rất nhiều khía cạnh đời sống hàng ngày của người dân, từ kinh tế, môi trường, xã hội, đến tâm lý và sức khỏe cộng đồng. 

CÂU CHUYỆN SINGAPORE

Cuối tháng 5 vừa qua, Nhã Nam và enCity tổ chức buổi tọa đàm, ra mắt bản dịch tiếng Việt cuốn sách “Biên Niên Sử Singapore về Quy Hoạch Đô Thị” với tác giả - Giáo Sư TS. Heng Shye Kiang, Đại học Quốc gia Singapore, cùng khách mời - TS. Nguyễn Anh Tuấn, Sở Quy hoạch – Kiến trúc TPHCM. Cuốn sách gốc nằm trong bộ 50 cuốn “Biên Niên Sử Singapore” bàn về 50 lĩnh vực chủ đề khác nhau - những gì đã làm cho Singapore trở thành Singapore như ngày hôm nay - được xuất bản nhân dịp kỷ niệm 50 năm độc lập của đảo quốc Sư Tử (2015). 

Điều gì đã khiến nơi từng là một trong những “khu ổ chuột tồi tệ nhất thế giới” (1948, báo cáo của Ủy Ban Nhà Ở, Anh Quốc) trở thành một thành phố xanh, sạch, an toàn, đáng sống với tầm vóc toàn cầu ngày nay? Kỳ tích của đảo quốc này thật truyền cảm hứng, xứng đáng để nghiên cứu và suy ngẫm. Tất nhiên, có rất nhiều yếu tố tạo nên bức tranh của Singapore hôm nay. Dưới đây chỉ phản ánh một số điểm chính mà tôi ấn tượng về đảo quốc Sư Tử, qua buổi tọa đàm và từ cuốn sách. 

1. Tinh thần tự cường, vượt khó. Là một đảo quốc nhỏ, với quỹ đất hạn chế, khan hiếm tài nguyên và nguồn nước, Singapore rất ý thức về những khó khăn của mình và tầm quan trọng của việc phải quy hoạch đất nước một cách cẩn trọng, hiệu quả, không thể cho phép ô nhiễm hay lãng phí. Singapore nghiêm túc, trung thực đối mặt với những thách thức của chính mình, trong một tinh thần cầu tiến, nỗ lực không ngừng để hoàn thiện. Trỗi dậy từ khởi đầu khiêm tốn, Singapore kiên trì tiến bước, biến khó khăn thành động lực cho những sáng kiến phát triển. 

2. Chính phủ một cấp, minh bạch, chí công vô tư. Vừa là một thành phố, vừa là một quốc gia, Singapore có cách tiếp cận “toàn chính phủ”. Hệ thống nhà nước tập trung tạo điều kiện cho hợp tác liên ngành, phối kết các cơ quan khác nhau, và có thể phản ứng nhanh nhạy trong những tình trạng khẩn cấp. Quy hoạch sử dụng đất tổng thể tham vấn kỹ lưỡng nhiều cơ quan chính phủ và các bên liên quan, đồng thời được triển lãm toàn quốc để công chúng góp ý. Quy hoạch cũng được rà soát, cập nhật định kỳ và minh bạch, công khai trực tuyến cho người dân ai cũng có thể truy cập. Chính phủ không thay đổi nhiều suốt 30 năm qua tạo thuận lợi cho việc quy hoạch dài hạn. Đồ án quy hoạch mang tính kế thừa, ổn định, đồng thời liên tục cập nhật dựa trên dữ liệu thực nghiệm và linh hoạt trong thực thi, cũng như luôn dành chỗ cho sự sáng tạo đổi mới. 

Hiện tại chính phủ sở hữu hơn 90% diện tích đất đai tại Singapore. Điều này tạo điều kiện cho việc quy hoạch cơ sở hạ tầng công cộng, đảm bảo các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội, quốc phòng, bảo vệ môi trường. Quy hoạch thực sự là công cụ của chính phủ giúp tối ưu quyền lợi quần chúng, hạn chế các tác động của thị trường cũng như việc đầu cơ đất đai. Kỳ hạn sử dụng đất công là 99 năm đối với nhà ở xã hội và 20 năm, 30 năm, 50 năm tùy loại dự án. Khi hết hợp đồng thuê, chính phủ thu hồi đất, giúp quỹ đất được tái tuần hoàn và tái phân bổ cho nhu cầu phát triển tương lai. 

3. Nhà ở xã hội (public housing). GS Kiang gọi việc quy hoạch nhà ở xã hội là “open hidden secret of our success” - một bí quyết mở cho thành công của Singapore. Ông nhấn mạnh nhà ở xã hội không chỉ cung cấp nơi sống cho người dân, mà còn liên quan đến bảo tồn và phát triển các di sản, chuyển dân từ khu vực trung tâm đã xuống cấp và tắc nghẽn nghiêm trọng sang các khu đô thị mới hiện đại, an toàn vệ sinh hơn (dù phần nào cũng cắt đứt mối gắn kết cộng đồng) đồng thời giải phóng quỹ đất trung tâm đắc địa. Các khu đô thị mới có khoảng cách hợp lý tới các tiện ích công cộng, được tách biệt nhau bởi các hành lang xanh nối với trung tâm tạo thành mạng lưới các công viên và không gian mở và hệ thống giao thông công cộng phủ kín toàn đảo. 

4. Tầm nhìn xa, hướng đến tương lai và sự phát triển bền vững. Từ khi độc lập, triết lý quy hoạch của Singapore luôn theo định hướng phát triển bền vững,  thân thiện với môi trường, ngay cả trước khi các thuật ngữ này trở nên phổ biến. Môi trường xanh, sạch luôn là ưu tiên hàng đầu, chính phủ đầu tư mạnh tay vào cơ sở hạ tầng môi trường thân thiện với thiên nhiên ngay khi đảo quốc này vẫn còn là một nền kinh tế non trẻ. 

Quy hoạch luôn dành chỗ cho những mảng xanh, chú trọng phát triển các công viên và không gian xanh ngoài trời phục vụ cho việc giải trí của người dân. Hệ số sử dụng cây xanh tỉ lệ 3:5 được áp dụng trong thiết kế cảnh quan. Nỗ lực liên tục mấy chục năm qua, đến nay, hơn 40% diện tích được phủ xanh và Singapore trở thành một trong những “thành phố vườn” xanh nhất thế giới. Chương trình phủ xanh đã giúp cải thiện thẩm mỹ cảnh quan đường phố, cung cấp bóng mát, giảm hiệu ứng đảo nhiệt đô thị, giảm tiếng ồn và khói bụi, nâng cao chất lượng đời sống. 

Singapore tận dụng mọi không gian cho mảng xanh. Các ý tưởng vườn trên cao được chương trình cảnh quan và không gian đô thị (URA) Singapore giới thiệu năm 2009. Chính phủ tài trợ đến 50% chi phí lắp đặt vườn đứng (cây cối phủ trên bề mặt đứng) và vườn sân thượng trên các cao ốc. Sáng kiến nông trại dọc (vertical farming) sử dụng thủy lực - Sky Greens của Singapore là giải pháp đô thị hướng đến sản xuất rau quả an toàn, tươi ngon trong khi sử dụng tối thiểu đất, nước và năng lượng. 

Dải thực vật và mái xanh trên các tòa nhà được thiết kế để lọc nước mưa, cải thiện chất lượng nước chảy vào sông. Bên cạnh phát triển công nghệ lọc nước thải, khử muối nước biển, nước mưa được tận dụng và thu gom qua hệ thống hồ chứa và mạng lưới phủ khắp đảo quốc.

Một nỗ lực lớn phối hợp nhiều bộ và cơ quan chính phủ kéo dài trong 10 năm là chiến dịch làm sạch sông ngòi năm 1977, loại bỏ dần các ngành gây ô nhiễm như sửa chữa đóng tàu, di dời các xưởng thủ công, trang trại chăn nuôi gây ô nhiễm ở thượng nguồn, nạo vét lòng sông. Chiến dịch nhấn mạnh tầm quan trọng của việc quản lý ô nhiễm tại nguồn, thiết lập các hệ thống thoát nước và nước thải riêng biệt để giữ các kênh nước sạch sẽ và kiểm soát lũ lụt.

Sáng kiến năm 2006, chương trình nước sạch, đẹp, tích cực (ABC Waters - Active, Beautiful, Clean Waters) được đưa ra nhằm chuyển đổi các cơ sở hạ tầng “xám” như cống, kênh đào, hồ chứa… thành mạng lưới đường thủy xanh lam, tạo ra không gian cộng đồng cho các hoạt động vui chơi giải trí, thể dục thể thao. 

5. Quy hoạch không gian ngầm. Khai thác không gian ngầm khá đắt đỏ mà không phải thành phố nào cũng có khả năng thực thi. Bên cạnh hệ thống tàu điện ngầm, giờ đây Singapore còn có cả các đường hầm hạ tầng đô thị như hệ thống đường hầm nước thải sâu dưới lòng đất liên kết đến 3 nhà máy xử lý nước thải. Những khu vực an ninh quốc phòng, cơ sở đạn dược bảo quản an toàn vật liệu cháy nổ cũng được ngầm hóa để giải phóng đất bề mặt làm không gian công cộng cho người dân giải trí. Hang đá Jurong lưu trữ dầu ở sâu dưới đáy biển. 

6. Rewild Singapore! Thiên nhiên hóa (hoang dã hóa) nhằm tăng tính đa dạng sinh học, đưa Singapore ngày càng gần nhiều hơn với tự nhiên. Đây là điều tôi thích thú nhất từ buổi tọa đàm, và nó không có trong sách, vì cuốn sách gốc tiếng Anh được xuất bản năm 2015, trong khi ý tưởng hay ho này mới chỉ được đưa vào ở Singapore từ năm nay 2023. 

Theo GS Kiang, ý tưởng này cần một sự chuyển đổi về tư duy trong quy hoạch đô thị xanh! Đây là một kế hoạch dài hạn nhằm đưa vào các hành lang sinh thái, cho phép sinh vật di chuyển từ những khu vực sinh thái khác nhau với nhau bên trong hành lang. Tất nhiên điều này cũng sẽ dẫn đến khả năng về những cuộc “chạm trán” giữa con người với động vật như heo rừng, khỉ xuất hiện trước nhà dân chẳng hạn. 😆

Thiên nhiên hóa không chỉ là việc trồng cây mà là trồng nhiều loại cây đa dạng khác nhau. Đó là sự chuyển đổi từ cảnh quan được cắt tỉa cẩn thận sang trạng thái hoang dã tự nhiên có chủ ý, cân bằng giữa sự phát triển của thực vật được trồng và phát triển tự nhiên, tạo nên hệ sinh thái riêng của nó. 
Cuối cùng, mặc dù việc lãnh đạo của chính phủ rõ ràng rất quan trọng, một quốc gia muốn phát triển bền vững chắc chắn cần có những người dân với ý thức cao về trách nhiệm xã hội và môi trường. Điều này luôn quay về chủ đề quan trọng muôn thuở, giáo dục nâng cao nhận thức cộng đồng!


Thứ Hai, 18 tháng 3, 2019

An Lạc Trang



"Tất cả cũng tàn phai, chỉ tình thương ở lại.
Những gì trao hôm nay, sẽ theo nhau mãi mãi."

Đó là hai câu thơ viết theo kiểu thư pháp trên bức tường nhà kho rực rỡ sắc màu từ những cánh cửa cũ được sơn lại trong khu vườn Tình Huynh Đệ. Lá cây rụng đầy trên đất, trên chiếc ghế bằng tre. Kia là ấm trà còn dang dở, hẳn ai đó đã ngồi đàm đạo nơi đây. Hai chú chó Từ Bi và Trí Tuệ như hai thiên thần xinh xắn vừa cắn nhau ẳng ẳng đã quay lại nô đùa với nhau vui vẻ. 

Mình bước đi giữa một không gian tươi xanh, gió mát, líu lo tiếng chim hót xung quanh. Mình thấy lòng bình yên và có chút man mác hoài cổ. Dường như mình đã thấy những khung cảnh này đâu đó rất đỗi thân quen. Đó là những vạt lục bình trôi trên khúc sông nhỏ ở Cao Lãnh, Sóc Trăng... Đó là những lúc cùng đồng đội nấu ăn, rửa bát ở nhà chung hồi hè Trẻ Đồng Xanh tại Hội An... Mình muốn hít thật căng cả đất trời bình yên này, để những niềm an lạc đó thấm vào trong từng mảnh thẳm sâu của hiện tại, và ký ức...

Chủ nhật vừa rồi, tụi mình có một chuyến đi tiền trạm đến An Lạc Trang, chuẩn bị cho sự kiện dự định tổ chức vào tháng 4. Gần kết thúc hai năm fellowship tại Tây Ninh rồi, tụi mình cũng trăn trở muốn làm một cái gì đó cho các thầy cô...

Vừa mới đến nơi, tụi mình đã được trải nghiệm trò đu dây qua sông hồi hộp và thú vị. Giống như mình đang bay qua khúc sông ấy. Cảm giác thật là Yomost! Rồi khi qua đến cù lao, tụi mình như được bước vào một thế giới khác, riêng tư và thanh tĩnh. Mình thấy tụi mình thật diễm phúc bởi nhận được sự ưu ái từ người chủ vườn. Anh kể rằng anh có nghe về câu chuyện của Teach for Vietnam, về anh Huỳnh Hạnh Phúc và anh trân trọng, quý những người trẻ như các bạn. Anh nói có lẽ có chút thiên vị bởi vì anh quê ở Tây Ninh. Anh sinh ra và lớn lên ở Tân Biên, sau này lên Sài Gòn học đại học, rồi đi làm quản lý xây dựng. Ba mẹ anh vẫn còn ở Tây Ninh. Anh nói cảm ơn tụi em đã chọn Tây Ninh. Còn tụi mình thì lại nói, dạ mà thực ra là Tây Ninh đã chọn tụi em. 

An Lạc Trang nằm trên cù lao Bến Cỏ, sở dĩ có tên Bến Cỏ vì người dân hay cắt cỏ ở đây. Anh thích tên Bến Cỏ hơn (có lẽ vì nó thuần Việt hơn chăng), An Lạc Trang là do khách tham quan đặt cho. Năm 2004, anh đến đây. Năm 2005, cất căn nhà đầu tiên đến 2012 thì tạm xong như bây giờ. Cây cối đều là mọc tự nhiên, không bón phân, xịt thuốc. Đồ đạc, chất liệu nhà được tận dụng từ những vật dụng cũ, theo phong cách ‘low-maintenance”, điều kiện sống cơ bản, ít cần phải bảo dưỡng, quét dọn nhiều. Từ năm ngoái thì gia đình anh chuyển hẳn về đây vì anh muốn các con của mình được sống gần gũi với thiên nhiên, và hạnh phúc.

Những năm gần đây, An Lạc Trang đã trở thành một địa điểm yêu thích để tổ chức các khóa học yoga, thực hành thiền, các chương trình tu học…  Anh nói rằng mình đã học được rất nhiều từ những vị Thầy đến đây giảng (Thầy Hà Vĩnh Thọ, Thầy Minh Niệm, Sư Tâm Pháp, bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc…). Anh mong muốn tạo nên một không gian thiên nhiên trong lành, xanh mát, một nơi chốn bình yên và yêu thương cho gia đình mình và chia sẻ với cộng đồng những người bạn cùng hướng đến lối sống tỉnh thức, những thực hành nuôi dưỡng tinh thần, hạnh phúc và chữa lành từ bên trong như thở, thiền, yoga... Đối với anh, hạnh phúc vốn có sẵn bên trong mỗi chúng ta, và hạnh phúc là quay về kết nối với bản thân nội tâm bên trong mình, là sự có mặt, hiện diện trọn vẹn tại đây, bây giờ để kết nối với thiên nhiên, với những người xung quanh mình, với những gì chân thật, thực sự quan trọng. 

“Không gian này đã làm thay đổi bản thân tôi nhiều hơn là tôi đã thay đổi nó. Khi bạn đi đúng đường và kiên trì thực hành, sự chuyển hóa sẽ đến. Chỉ trong hơn bốn, năm năm trở lại đây, nhờ học từ những vị Thầy đến đây, tôi đã thay đổi rất nhiều. Từ một người “tham lam” muốn ôm đồm nhiều thứ, làm cái này, làm cái kia, tôi đã biết dừng lại, buông bỏ, và nhận ra những gì mới thực sự là quan trọng trong cuộc sống của mình. Hạnh phúc là sự lựa chọn. Hạnh phúc cũng còn là năng lực chấp nhận bản thân cùng với những hạn chế của mình, và chấp nhận những người thân của mình, với tình thương yêu vô điều kiện.” 

Cảm ơn một ngày ở An Lạc Trang. Cảm ơn gia đình người chủ vườn tốt bụng. Cảm ơn những người bạn đồng hành. Câu thơ trong khu vườn Tình Huynh Đệ lại vang lên trong đầu mình. 

"Tất cả cũng tàn phai, chỉ tình thương ở lại." 










Chủ Nhật, 18 tháng 5, 2008

Bức tranh màu xám

Chúng ta đang sống trong một giai đoạn đầy biến động của lịch sử. Chưa bao giờ văn minh nhân loại đạt nhiều thành tựu kỳ diệu trong khoa học và kinh tế như ngày nay. Tuy nhiên, cũng chưa từng bao giờ trong quá khứ, hành tinh chúng ta phải đối mặt với những thách thức tuyệt vọng về suy thoái môi trường và bất ổn xã hội trên diện rộng như vậy. 

Các nhà khoa học cảnh báo rằng những hoạt động của con người đang gây nên cuộc đại tuyệt chủng hàng loạt trên thế giới. Đô thị hóa, biến đất rừng thành đất canh tác nông nghiệp, phá rừng…làm mất nơi chốn sinh sống của động vật hoang dã và dẫn đến tổn thất lớn đa dạng sinh học. Rừng không chỉ cung cấp cho chúng ta gỗ quý, hoa trái, là tủ thuốc thiên nhiên, rừng còn là lá phổi xanh lọc sạch không khí, cây rừng giữ lớp đất mặt giàu dinh dưỡng khỏi xói mòn. Rừng là một bộ đệm tự nhiên ngăn lũ, cân bằng môi trường vi khí hậu. Vẻ đẹp lặng lẽ của rừng, dòng suối mát trong, tiếng chim ca…khiến tâm hồn ta thư thái, bình an. Thế mà, diện tích rừng trên thế giới đang ngày càng thu hẹp, thu hẹp dần. Các nhà khoa học ước đoán hàng triệu loài sẽ tuyệt chủng trong vòng 50 năm tới, chủ yếu do biến đổi khí hậu. 

Biến đổi khí hậu ngày nay không chỉ còn là dự báo mà đã và đang xảy ra trên hiện thực. Những diễn tiến khí hậu cực đoan, phức tạp và bất thường ngày càng nhiều trên thế giới: lốc bão, gia tăng mực nước biển, lũ lụt ở nơi này trong khi hạn hán kéo dài ở nơi khác. Băng tan ở vùng cực và đỉnh băng trên dãy Himalaya sẽ gây ra sự thiếu nước về lâu dài. Đại dương ấm lên gây ra hiện tượng mất màu (chết) của các rặng san hô (coral bleaching) và sự suy giảm nhiều loài thủy sinh vật nhỏ, từ đó lần lượt ảnh hưởng đến những sinh vật ăn chúng ở các cấp cao hơn trong chuỗi thức ăn như cá, chim và con người. Cũng cần lưu ý rằng, bên cạnh cây rừng, thì đại dương là nguồn hấp thụ carbon (carbon sink) chính của hành tinh. Vì vậy, đại dương ấm lên sẽ dẫn đến hạn chế khả năng hấp thụ CO2 của nó và điều này, như một cái vòng lẩn quẩn, lại càng góp phần gia tăng hiệu ứng ấm lên toàn cầu. 

Việc đốt nhiên liệu hóa thạch là một trong những nguyên nhân chính gây nên hiện tượng ấm lên toàn cầu. Khi bị đốt cháy, carbon tích tụ trong nhiên liệu hóa thạch kết hợp với oxy tạo thành CO2. Bình thường lượng CO2 nhất định là cần thiết trong bầu khí quyển để giữ điều hòa nhiệt độ cho Trái Đất (nếu không có những khí “nhà kính” như vậy, Trái Đất chúng ta sẽ giống như Mặt Trăng, ngày cực nóng đêm cực lạnh, khó duy trì những điều kiện cho một hành tinh sống). Từ thời cách mạng công nghiệp đến nay, chỉ trong vòng hơn hai trăm năm, nhân loại đã đốt cháy một lượng nhiên liệu hóa thạch (dầu mỏ, than đá...) mà tự nhiên mất hàng trăm triệu năm để tích tạo nên, lượng CO2 thải ra đã vượt quá mức cần thiết, gây nên mất cân bằng nghiêm trọng tỉ lệ CO2 trong khí quyển. Bên cạnh hiệu ứng nhà kính (hiện tượng Trái Đất ấm lên), việc đốt nhiên liệu hóa thạch còn gây ra mưa axit, ô nhiễm không khí, khói đô thị… 

Mọi hoạt động trong cuộc sống đều cần đến năng lượng. Năng lượng là huyết mạch của nền kinh tế. Tuy nhiên, xu hướng năng lượng hiện nay cho thấy một viễn cảnh không mấy sáng sủa. Nền kinh tế thế giới quá phụ thuộc vào dầu mỏ đang tiến dần đến khủng hoảng năng lượng khi nguồn nhiên liệu này đang ngày càng cạn kiệt (dự kiến trữ lượng dầu mỏ trên toàn cầu chỉ có thể đáp ứng trong vòng 30-50 năm tới với mức tiêu thụ như hiện tại). Dầu mỏ cũng là nguyên nhân sâu xa của các cuộc chiến tranh giành những nguồn nhiên liệu này ở Trung Đông. Trong khi đó, năng lượng hạt nhân chưa thể là một lựa chọn thay thế tốt đẹp bởi những nguy cơ an toàn, vấn đề chất thải hạt nhân vẫn chưa được giải quyết triệt để và nỗi ám ảnh hủy diệt của chiến tranh vũ khí hạt nhân. 

Chúng ta vẫn thường nghe khẩu hiệu “công nghiệp hóa – hiện đại hóa”, và quả thực công nghiệp hóa đã trở thành một “phong trào” mạnh mẽ lan rộng trên toàn cầu như một tiến trình khẳng định cho sự phát triển. Tuy nhiên, ô nhiễm là “sản phẩm” không mong đợi của mọi nền kinh tế công nghiệp mà chúng ta phải trả giá đắt để theo đuổi tăng trưởng kinh tế. Môi trường toàn cầu ngày nay hoàn toàn bị ô nhiễm, chúng ta có thể dễ dàng tìm thấy những hóa chất độc hại ở mọi nơi trên Trái Đất: trong không khí ta thở, trong thực phẩm ta ăn, trong nước ta uống, trong sông hồ, đại dương, đất mặt… Hàng ngàn những sản phẩm, thiết bị gia dụng nhân tạo, từ máy tính, chất tẩy rửa, sơn, thuốc trừ sâu…chứa những hóa chất độc hại cho sức khỏe con người. Dường như chúng ta đang sống trong một thế giới của chất thải, độc hại và ô nhiễm ngày càng gia tăng. 

Thậm chí thực phẩm ngày nay cũng không an toàn bởi vì nó đến từ một hệ thống nông nghiệp không bền vững. Chúng ta không thể phủ nhận thành công của cuộc Cánh Mạng Xanh (đưa phân bón hóa học, thuốc trừ sâu, chuyên canh… vào nông nghiệp) trong một thời gian ngắn, đã giải quyết khẩn cấp nạn đói và cung cấp lương thực cho người dân, nhất là ở các nước đang phát triển. Tuy nhiên, nền nông nghiệp hiện đại phụ thuộc hầu hết vào những yếu tố bên ngoài như tưới tiêu, năng lượng hóa thạch, phân bón tổng hợp, thuốc trừ sâu…tiềm ẩn những bất ổn và gây nên hàng loạt những hậu quả môi trường: rửa trôi chất dinh dưỡng, xói mòn đất, phung phí nước, ô nhiễm, lờn thuốc trừ sâu (dẫn đến phải sử dụng liều mạnh hơn, độc hơn), hiện tượng phú dưỡng hóa (eutrophication) ở sông hồ. Đất nông nghiệp bị ô nhiễm bởi các hóa chất (phân bón, thuốc sâu) làm cho thực phẩm ô nhiễm và cuối cùng là ảnh hưởng đến sức khỏe của cộng đồng. 

Nền nông nghiệp được “công nghiệp hóa” còn đe dọa đến đa dạng sinh học của nguồn gene. Toàn cầu hóa đã làm trầm trọng thêm tình hình ở các nước đang phát triển, nơi mà những hoa màu được độc canh (monoculture crops) để chuyên dành cho xuất khẩu. Thương mại thế giới làm cho địa phương mất quyền kiểm soát về các sản phẩm nông nghiệp của mình, hơn nữa năng lượng bị phung phí đáng kể bởi việc vận chuyển thực phẩm đường dài. 

Đô thị hóa là một hệ quả tất yếu của quá trình công nghiệp hóa. Liên Hiệp Quốc dự đoán đến 2015 sẽ có khoảng 22 siêu đô thị (megacities) với dân số hơn 10 triệu trên thế giới. 16 trong số đó là ở các nước đang phát triển, nơi mà gần một nửa dân số sẽ sống trong thành phố. Nếu khuynh hướng này cứ tiếp tục mà không có điều chỉnh nào, đô thị hóa cùng với gia tăng dân số sẽ tạo nên sức ép trên toàn cầu cùng với nhiều vấn nạn môi trường và xã hội của chúng: ô nhiễm, việc làm, nhà ở, chăm sóc y tế, thiếu hụt nguồn nước sạch… 

Những vấn đề xã hội liên quan đến quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa cũng tiềm ẩn nhiều cay đắng khi những mối liên kết giữa truyền thống và văn hóa trong các cộng đồng bị phá vỡ. Xu hướng chủ nghĩa cá nhân trong giới trẻ ngày càng phổ biến, con người tự tạo nên những “bức tường” đối với thế giới bên ngoài. Sự ghét bỏ xã hội (social alienation), cô lập với gia đình và láng giềng, cuối cùng dẫn đến gia tăng tội ác và nỗi sợ. 

Dường như con người đang tiến đến thời đại của giới hạn, khi mà chúng ta đang ngày càng đi quá sức chịu đựng của Trái Đất. Còn hay không một chiếc vé nào cho hy vọng?

Tài liệu tham khảo chính:

Global Issues -Social, Political, Economic and Environmental Issues That Affect Us All http://www.globalissues.org/
Seitz, John L., Global issues – an introduction, Blackwell, 1995.
Solbrig, Otto T. (Editor) – Globalization and the rural environment, Harvard Univ. Press, 2001.

Thứ Sáu, 21 tháng 12, 2007

Chuyên đề năng lượng của VNGG

Link: https://sites.google.com/site/vnggenergy/mucluc


LỜI NGỎ (Preface)

NHÓM TÁC GIẢ (VnGG Energy Working Group)

CÁC ĐỊA CHỈ LIÊN HỆ & CÁC LIÊN KẾT HỮU ÍCH (List of contacts and web links)

BẢNG CÁC CHỮ VIẾT TẮT (List of abbreviation)

BẢNG CÁC ĐƠN VỊ SỬ DỤNG TRONG TÀI LIỆU (Unit Definition and Conversion)

TÓM TẮT TÀI LIỆU (Executive Summary)

Phần A
KHÁI QUÁT VỀ NĂNG LƯỢNG (Overview of energy)

Ch. 1
Lịch Sử Năng Lượng (History of energy)
(Bùi Thị Khánh Chi)

Ch. 2
Phân Loại Sơ Lược (Brief summary of energy)
(Trần Vạn Thọ)

Phần B
CÁC DẠNG NĂNG LƯỢNG THÔNG THƯỜNG (Conventional form of energy)

Ch. 3
Năng Lượng Từ Nhiên Liệu Hóa Thạch (Fossil Energy)
(Phạm Văn Tuấn, Bùi Thanh Huyền, Hồ Trọng Long)

Ch. 4
Năng Lượng Nguyên Tử  (Nuclear Energy)
(Trương Tư Tấn)

Ch. 5
(Đỗ Văn Chương)

Ch. 6
Năng Lượng Gió (Wind Energy)
(Đỗ Văn Chương)

Ch. 7
Thủy Điện (Hydro Power)
(Đỗ Văn Chương)

Ch. 8
(Đỗ Văn Chương)

Ch. 9
Địa Nhiệt (Geothermal)
(Đỗ Văn Chương)

Ch. 10
(Đỗ Văn Chương, Nguyễn Thị Hồng Anh)

Phần C
NĂNG LƯỢNG & MÔI TRƯỜNG (Energy and Environment)

Ch. 11
Bức Tranh Năng Lượng Thế Giới (Overview of Global Energy)
(Bùi Thanh Huyền)

Ch. 12
Những Vấn Đề Tồn Tại (The problems)
(Hồ Trọng Long)

Phần D
CHIẾN LƯỢC CHO TƯƠNG LAI (Future Strategy)

Ch. 13
(Nguyễn Duy Nghĩa)

Ch. 14
Đa Dạng Hóa Cấu Trúc Năng Lượng (Diversification)
(Đỗ Văn Chương)

Ch. 15
Hydrogen & Pin Nhiên Liệu (Hydrogen and Fuel Cell)
(Phạm Thùy Dương)

Ch. 16
(Trịnh Minh Giang)

Ch. 17
Tiết Kiệm Năng Lượng (Energy Conservation)
(Nguyễn Bá Quân)

LỜI KẾT

PHỤ LỤC
Phụ lục Chương 1 Chân Dung Các Nhà Khoa Học 
                             (Bùi Thị Khánh Chi)
Phụ lục Chương 4 - Con Người Và Bức Xạ 
                             
(Trương Tư Tấn)
Phụ lục Chương 7 Minh Họa Cơ Cấu Vận Hành Của Trạm Thủy Điện
                             
(Đỗ Văn Chương)
Phụ lục Chương 15 - Thế Giới Hướng Đến Nền Kinh Tế Hydro                                    (Phạm Thùy Dương)