Hiển thị các bài đăng có nhãn Phát triển bền vững. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Phát triển bền vững. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Bảy, 23 tháng 12, 2023

Trở lại Pathom Asoke

Tôi đến Pathom Asoke lần đầu tiên hồi cuối năm 2019, trên hành trình VCIL Travel School chủ đề Paradigm Shift - New Story. Chuyến đi ròng rã suốt gần một tháng trời đưa chúng tôi tham quan, học tập ở những môi trường giáo dục thay thế và cộng đồng tỉnh thức khác nhau tại Thái Lan và Ấn Độ. Mỗi nơi chúng tôi đi qua đều chứa đựng những câu chuyện truyền cảm hứng và độc đáo theo những cách riêng. Điểm chung của tất cả những nơi đó là ý thức cao về sinh thái, tâm linh và triết lý sống nhân văn, hướng đến sự phát triển bền vững, tái tạo.

Trong hành trình năm ấy, có hai nơi cho tôi cảm giác như chạm vào Utopia - xã hội không tưởng, là ngôi làng Phật giáo Pathom Asoke ở Thái Lan và thành phố bình minh (the City of Dawn) Auroville, Ấn Độ. Ở đó, người ta không dùng tiền, không có sở hữu cá nhân; giáo dục, y tế, nhà ở và các nhu cầu cơ bản đều được đáp ứng. Mọi người được tự nguyện lựa chọn làm công việc mình thích. Có lẽ nhờ ý thức tự giác và tinh thần tập thể cao, sự chú trọng đời sống tinh thần, nhu cầu vật chất chỉ cần vừa đủ nên “lý tưởng XHCN” đã được hiện thực hóa trước mắt, ngỡ ngàng, thú vị. 

Nếu Auroville giống như một “thiên đường” đa dạng sắc màu quốc tế, mang hơi hướng viễn cảnh tương lai, thì Pathom Asoke lại có chút gì đó đơn sơ, nhuốm màu hoài niệm khiến tôi như thấy mình xuyên không, lạc vào một thời quá khứ xa xưa, làng mạc thôn dã, yên bình, thuần hậu, chân chất.

Tháng 9 năm 2023, tôi trở lại Pathom Asoke sau gần bốn năm trời nhiều biến động của bản thân và cả đại dịch của thế giới. Ngôi làng vẫn vậy, có lẽ một chút vắng vẻ hơn. “Trở lại Pathom Asoke” không chỉ hàm ý thăm lại người xưa chốn cũ mà còn gợi nhắc tôi quay về với những giá trị cốt lõi, giản dị của thực tập Phật giáo, và quay về với đời sống bên trong nội tâm mình.

Pathom Asoke thuộc tỉnh Nakhon Pathom, là một trong 9 trung tâm lớn rải rác khắp Thái lan của phong trào phục hưng Phật giáo Santi Asoke, được khởi xướng bởi Sư Bhodirak. Sư Thầy sinh năm 1934, có cha người gốc Hoa và mẹ người Thái. Thời trẻ, với nghệ danh Rak Rakphongs, Thầy từng ở trên đỉnh vinh quang khi làm việc cho đài truyền hình Thái Lan, nổi tiếng trong vai trò người sản xuất và dẫn các chương trình giải trí và giáo dục. Thầy viết nhiều truyện ngắn, bài báo, làm thơ và còn là một nhà soạn nhạc tài năng, sáng tác nhiều bài hát và nhạc phim được yêu thích. Thế mà Thầy đã rời bỏ công việc và tất cả những hào quang của đời sống thế tục đó năm 35 tuổi, và vài tháng sau Thầy xuất gia, gây sốc cho tất cả những người thân và bạn bè. Người ta kể rằng từ một trải nghiệm tâm linh đặc biệt khiến Thầy thức tỉnh với sứ mệnh và “cuộc đời như mở ra trước mắt”. 

Không hài lòng với lối sống thừa mứa, thực hiện các phép thuật, bùa chú của một số tu sĩ bấy giờ, Thầy đã khởi xướng nhóm Santi Asoke như một cuộc chấn hưng, quay về bám sát với các thực hành căn bản gốc rễ của Phật giáo, ăn chay, sống giản dị, chuyên cần, tự lực, loại bỏ các hủ tục mê tín. Tính cách mạng triệt để và quyết liệt trong đường lối của Thầy đã từng phải đối mặt với những chỉ trích từ nhóm Phật giáo chủ đạo Thái Lan trong nhiều năm liền. Tuy nhiên, “vàng thật không sợ lửa”, uy tín của Thầy càng thêm mạnh mẽ bởi lợi lạc lớn lao từ sự kiên định, nghiêm túc thực hành giới đức mà những người theo Thầy đã nhận được.

Từ nhóm Asoke này, Sư Thầy Bhodirak đã đưa vào mô hình Bunniyom, nơi các tu sĩ và Phật tử cùng chung sống trong không gian cộng đồng như những làng sinh thái, có đền chùa, trường học, ruộng vườn. Từ ‘Bun-niyom’ là lối chơi chữ, với ‘bun’ có nghĩa là ‘công đức’ đối lại với ‘thun-niyom’ là ‘chủ nghĩa tư bản’. Đối với người dân Asoke, đời sống không phải để tích tụ tài sản vật chất cho riêng mình hay mưu cầu danh vọng, quyền lực và địa vị thuộc thế gian, mà chú trọng vào phát triển “tài sản” tinh thần, tích lũy công đức qua hành thiện, tạo phước cho đời.

Triết lý Bunniyom nhấn mạnh việc nuôi dưỡng Tứ Vô Lượng Tâm (Từ Bi Hỷ Xả), tôn trọng sự sống và phi bạo lực. Tất cả các cư dân trong cộng đồng đều giữ 5 giới, ăn chay, và cố gắng tự chủ nguồn lương thực, rau củ quả nhiều nhất có thể. Nhóm Asoke là một trong những nơi tiên phong tại Thái Lan khởi xướng thực hành nông nghiệp hữu cơ và hướng đến đời sống tự cung tự cấp, không sử dụng thuốc trừ sâu hay phân bón hóa học, tôn trọng sự sống ngay cả với loài côn trùng nhỏ bé. Nông nghiệp hữu cơ lành sạch, không sử dụng hóa chất độc hại, vì thế không gây tổn hại cho bản thân chính người nông dân, người sản xuất, người tiêu dùng và cả các chúng sinh khác trong môi trường. 

Các trung tâm và cộng đồng Asoke hoạt động theo cùng triết lý nhưng mỗi nơi có những đặc trưng, thế mạnh riêng và cùng hỗ trợ, bổ túc cho nhau trong mạng lưới. Trung tâm Asoke tại Bangkok đóng vai trò như trụ sở truyền thông và thương mại chính cho toàn mạng lưới. Còn Pathom Asoke nổi bật với việc trồng và sản xuất dược liệu từ thảo mộc. Pathom Asoke có cả một nhà máy lớn, được đầu tư chuyên nghiệp bài bản các thiết bị và công nghệ, chuyên nghiên cứu và sản xuất các dược liệu, trà, mỹ phẩm tự nhiên từ thảo mộc. Làng không trồng lúa nên gạo sẽ được cung cấp từ cộng đồng Asoke cách đó hơn 60 km và các nhóm trong mạng lưới nông nghiệp tự nhiên.

Pathom Asoke được thành lập từ năm 1974, nằm trên khu đất hiện nay có diện tích khoảng 16 ha (100 rai Thái), phủ bóng cây xanh mát, có hồ nước và suối chảy qua. Trung tâm làng là đền chùa và trường học, giống như khu vực quản lý hành chính, có thư viện, đài phát thanh riêng truyền thông trong nội bộ cộng đồng. Các tu sĩ sống đơn giản với bình bát, chiếc chiếu manh và vài bộ áo trong những căn chòi nhỏ bằng gỗ lợp lá, cạnh khu vực đền thờ. Tu sĩ đóng vai trò quan trọng như những người lãnh đạo tinh thần trong cộng đồng. 

Pathom Asoke có trường nội trú cho học sinh cấp 2, 3 và trường nghề, tất cả đều miễn phí. Các em học sinh mặc đồng phục cùng màu xanh, đi chân đất như một thực hành để rèn sự chú tâm. Các em nữ cắt cùng kiểu tóc ngắn. Thầy cô giáo cũng là những người tình nguyện. Học sinh ở trường đa số được gửi đến từ những nơi khác. Triết lý giáo dục ở Asoke chú trọng nhiều vào việc phát triển nhân cách hơn là chỉ cung cấp tri thức, các em được rèn luyện để trở thành những người tử tế, thiện lành, chăm chỉ, kỷ luật, vị tha, có tinh thần tự chủ, khả năng lãnh đạo, biết cách hợp tác trong làm việc nhóm, cách trình bày ý kiến, thảo luận, thương thuyết các giải pháp cho những xung đột, chịu trách nhiệm cho hành xử của mình và có thể tự lực ở mọi nơi. Giáo lý và đạo đức Phật giáo là một phần quan trọng trong chương trình học. Các em thức dậy từ sáng sớm, theo chương trình học vào buổi sáng, tự phân công nấu ăn và buổi chiều thì lao động theo nhóm trong các xưởng hay vườn của cộng đồng. Sự học không chỉ từ sách giáo khoa mà còn đến từ công việc. Ở mọi nơi làm việc, những người lao động là những người thầy của các em. Các em được rèn luyện các kỹ năng sống, làm vườn, nấu ăn, dọn dẹp, sản xuất, chăm sóc, sữa chữa máy. Mỗi tuần một lần, các em có buổi phản tư cùng nhóm, xem xét lại về việc thực hành, giữ giới của bản thân.

Làng có xưởng làm đậu hũ và nước tương riêng, rồi trạm sản xuất than củi, các vườn rau hữu cơ, trang trại nấm cung cấp thực phẩm cho cộng đồng. Nước tương hữu cơ ở Pathom Asoke ngon tuyệt vời! Nhà hàng của Pathom Asoke vừa được xây mới khang trang. Khách đến ăn được phát phiếu và chọn món ở các quầy. 

Làng có trạm y tế riêng mà cô bác sĩ ở đó nói vui là ít có việc để làm. Vì mọi người ở đây đều hoạt động  tích cực, ăn đồ lành sạch, môi trường thân thiện, xanh đẹp, bình an nên ai cũng vui khỏe, ít bệnh tật. 

Mọi người đều làm việc và học được rất nhiều qua chính quá trình làm việc, và đó mới là điều quan trọng, chứ không phải thành quả. Làm việc với tinh thần phụng sự và trao tặng giúp ta phát triển lòng vô kỷ, vị tha, mang lại niềm vui và không phí thời gian, năng lượng vào sự chỉ trích. Tất cả mọi công việc tại làng đều được làm dựa trên tinh thần tình nguyện, không lương. Người ta làm việc trong làng như đi làm công quả trong chùa. Mọi người tự do lựa chọn hay thay đổi công việc của mình, với ý thức tự giác và tự quản cao. Thường các công việc không đòi hỏi kỹ năng nhiều bởi sẽ luôn được làm cùng với nhóm và được hỗ trợ từ mọi người trong nhóm. Làm việc nhóm đòi hỏi sự bao dung, nhẫn nại, từ bi và tập trung, chánh niệm.

Một số công việc chuyên môn cần phải thuê người từ bên ngoài thì sẽ dùng quỹ trung tâm để trả với chi phí thấp. Mọi thứ đều được tận dụng, tuần hoàn để hạn chế rác thải ít nhất có thể. Rác thải được phân loại theo các nhóm khác nhau. Rác hữu cơ được ủ làm phân bón; giấy, thủy tinh và kim loại được gửi đi tái chế; một số khác được đốt. 

Cửa hàng ở tất cả các trung tâm Asoke đều vận hành theo triết lý trao tặng và phụng sự, không nhấn mạnh vào lợi nhuận nên hàng hóa vừa rẻ vừa chất lượng. Món hàng được làm từ nguyên vật liệu lành sạch và từ tâm thiện, tình thương của người sản xuất, như một sự cúng dường và trao tặng nồng ấm đến người mua, chứ không phải là một giao dịch đổi chác lạnh lẽo vô tình. Thế nên, món hàng được bán hoặc với mức lời thấp, hoặc với giá hòa vốn, hoặc với giá thấp hơn chi phí sản xuất, hoặc được trao tặng miễn phí! 

Các nguồn lực chính trong cộng đồng đều thuộc sở hữu tập thể và có một quỹ trung tâm cung cấp tài chính cho các dự án. Những người thực hành theo phong trào Asoke nhưng sống và làm việc bên ngoài cộng đồng đều thường xuyên đóng góp. Người dân Asoke được chăm lo toàn bộ việc sinh sống, ăn ở, giáo dục, y tế… suốt cả vòng đời từ lúc sinh ra đến tận khi chết đi. 

Cuối làng là tòa nhà hỏa táng, nằm đằng sau bóng một cái cây to thật đẹp trong một khung cảnh yên bình. Chưa được chứng kiến, tôi chỉ nghe kể rằng đám tang ở đây cũng nhẹ nhàng, tĩnh lặng, như một sự chúc phúc cho người ra đi đến một hành trình mới, mà biết chắc rằng sẽ tốt đẹp bởi cả cuộc đời sống thiện lành đã trải qua ở nơi này. 

Năm 2019, chúng tôi đến Pathom Asoke đúng vào ngày 5 tháng 12, kỷ niệm sinh nhật Vua Rama IX (1927-2016), một bậc minh quân được nhân dân Thái Lan tôn kính và yêu quý, người đã khởi xướng triết lý Kinh Tế Vừa Đủ (Sufficiency Economy Philosophy), và đã làm việc hết mình vì người dân. Cả làng tổ chức lễ hội. Thức ăn chay đủ loại được phát miễn phí ở các quầy. Người ta cầu nguyện rồi hát múa trong những chương trình văn nghệ nhiều màu sắc. Tôi nhớ người tham dự còn được tặng cây mang về, thật ý nghĩa. Điều đó làm cho mình có trách nhiệm và niềm vui trong việc chăm sóc và nhìn ngắm một sự sống lớn lên.

Tự nhiên nghĩ về Thái Lan và tôi thấy họ thật may mắn có những nhà lãnh đạo hiền minh, tài đức như Vua Rama IX, Sư Thầy Bhodirak của Santi Asoke, và Ajarn Yak của mạng lưới nông nghiệp tự nhiên. Tôi mơ một ngày Việt Nam cũng sẽ có được những cộng đồng tỉnh thức, những làng sinh thái như thế, nơi mà người ta sống tử tế, thiện lành với nhau, với thiên nhiên...












Thứ Hai, 9 tháng 10, 2023

Green Power House — Ngôi nhà năng lượng xanh

THE NEED TO GROW (2018)

Ngay sau chuyến đi VCIL Travel School tại Thái Lan về triết lý kinh tế vừa đủ và nông nghiệp tự nhiên (với nhiều điều hữu ích sẽ được kể từ từ trong những post khác), tôi tình cờ được thu hút tới và tìm xem bộ phim tài liệu đạt nhiều giải thưởng ở các liên hoan quốc tế, “The Need to Grow”. Chữ “grow” ở đây thú vị bởi nó hàm chứa hai lớp ý nghĩa, vừa là sự phát triển, vừa là sự gieo trồng. [Bạn có thể xem phim tại link sau https://grow.foodrevolution.org].


Việc lạm dụng hóa chất và độc canh trong nền nông nghiệp công nghiệp hóa hiện nay đang phá vỡ sự sống các sinh vật trong đất, làm đất ngày càng bạc màu và gây suy giảm đa dạng sinh học, mất cân bằng sinh thái. Đa dạng sinh học dẫn tới sự trù phú. Đa dạng về hạt giống là căn cơ cho an ninh lương thực. Khi đa dạng sinh học giảm thì lại càng phải cần nhiều phân bón tổng hợp, thuốc trừ sâu, diệt cỏ hơn để đạt được cùng sản lượng trước đó và diệt trừ sâu rầy, mà vốn tự nhiên lẽ ra không phải là vấn đề trong một hệ sinh thái lành mạnh. Ngày càng phụ thuộc hơn vào hóa chất, chúng ta đang đầu độc đất, làm đất chết, tăng tốc xói mòn, ô nhiễm môi trường và cũng tự đầu độc chính mình. Thực phẩm từ canh tác lạm dụng hóa chất không những chẳng còn nhiều dinh dưỡng mà còn tiềm ẩn nguy cơ của nhiều căn bệnh thời đại.

Tốc độ mất đất đang diễn ra rất nhanh chóng, gấp nhiều lần so với tốc độ đất được tái tạo lại. Nếu cứ tiếp tục với tốc độ này, thế giới sẽ đi vào thảm họa, biến đổi khí hậu, lũ lụt, hạn hán, khan hiếm thực phẩm. Mọi thứ phát triển với tốc độ hàm số mũ chứ không tuyến tính, và nếu chúng sụp đổ, chúng cũng sẽ sụp đổ với tốc độ hàm số mũ. Tương lai thế giới sẽ phải, hoặc là hướng về những cộng đồng sống thuận tự nhiên, canh tác hữu cơ như mô hình các làng sinh thái, vườn rừng, rừng thực phẩm (food forest), kinh tế tuần hoàn; hoặc là nhân loại sẽ tự mình đi đến chỗ diệt vong. 

“Chúng ta càng chăm lo cho sự đa dạng sinh học, chúng ta càng chăm lo cho đất thì chúng ta càng thực sự trồng được nhiều thực phẩm.” ~ Vandana Shiva 

Ưu tiên hàng đầu hiện nay là cải tạo lại đất. Chúng ta không thể nuôi dưỡng thế giới bằng đất chết. Chúng ta cần bắt đầu chuyển đổi từ tư duy dựa trên sự chết chóc đến nền kinh tế dựa trên sự sống. Sự khác biệt giữa sự sống và cái chết, giữa điêu tàn và trù phú, giống như sự khác biệt giữa bụi và đất. Chúng ta cần áp dụng quá trình sinh học tự nhiên và tăng tốc tái tạo đất. Không có một giải pháp độc nhất nào, mà nhiều nhiều những giải pháp nhỏ, tập hợp lại cùng nhau sẽ thực sự dẫn đến chuyển biến xã hội. Nhưng cần có ý chí của mọi người, và thời điểm đã đến rồi.

Chỉ một nắm đất trong bàn tay có thể chứa đựng số vi sinh vật nhiều hơn dân số con người trên hành tinh. Toàn bộ chuỗi thức ăn và sự tồn tại của chính chúng ta có được là nhờ hàng tỉ tỉ những sinh vật nhỏ bé này, sinh sống ngay dưới chân chúng ta. Không cày xới để hạn chế phá vỡ các hệ thống vi sinh vật đất, luôn che phủ đất để giảm bốc hơi, và làm phân compost, tất cả những phương pháp này giúp giữ nước và làm giàu cho đất. Chúng giúp gia tăng các hợp chất humic, những chỉ thị quan trọng của đất khỏe. Các hợp chất humic , được hình thành từ phân hủy sinh học của thực vật chết, hỗ trợ dòng dưỡng chất thiết yếu cho cây trong cấu trúc đất, giúp đất màu mỡ, phì nhiêu. Acid humic tích lũy trong đất qua thời gian giúp đất tăng khả năng giữ chất dinh dưỡng. Khi cây hấp thụ CO2, carbon được cung cấp cho vi sinh vật qua bộ rễ. Bộ rễ cô lập carbon trong khí quyển vào đất. Do đó, đất khỏe có thể góp phần lớn vào việc cân bằng khí nhà kính trên hành tinh. 

Những nguyên lý hoạt động hài hòa với thiên nhiên này được biết đến như là nền nông nghiệp tái tạo (regenerative agriculture). Bằng việc tạo ra hệ thống thực phẩm lành mạnh và giàu dinh dưỡng, nông nghiệp tái tạo không chỉ nuôi dưỡng thế giới mà còn là niềm hy vọng của hành tinh nhằm chủ động đảo ngược hiện trạng biến đổi khí hậu. Việc hồi phục, gia tăng sức khỏe cho đất thực sự như một mũi tên trúng nhiều đích, nó đồng thời giải quyết gần như nhiều vấn đề môi trường khác. Bộ phim và cả chuyến đi học tập tại Thái Lan đưa ra cùng một thông điệp chung về tầm quan trọng của đất và sự khỏe mạnh của đất đối với nông nghiệp và cả hệ thống thực phẩm: “hãy tập trung vào nuôi dưỡng đất, rồi để đất nuôi cây”, chứ không phải tập trung vào nuôi cây như cách bón phân hóa học hiện nay. 



Khác với những ý kiến rằng canh tác hữu cơ cho năng suất thấp, bộ phim đề cập đến nghiên cứu dài hơn 30 năm đã minh chứng rằng nông nghiệp hữu cơ có thể đọ được hoặc thậm chí vượt trội hơn năng suất canh tác thông thường, giàu dưỡng chất hơn, trong khi đó còn giảm 35% phát thải khí nhà kính, sử dụng 45% ít năng lượng hơn và tái tạo đất thay vì gây thoái hóa đất như canh tác thông thường với phân bón hóa học và hóa chất diệt côn trùng. Các nghiên cứu cũng cho thấy rằng đất càng được quản lý một cách toàn diện thì càng thực sự trồng được nhiều thực phẩm hơn.

Bộ phim kể về ba câu chuyện truyền cảm hứng của ba nhân vật chính nỗ lực mang lại những giải pháp cho cuộc cách mạng hệ thống thực phẩm: Alicia - nhà hoạt động môi trường chỉ mới 8 tuổi đấu tranh chống thực phẩm biến đổi gen và nâng cao nhận thức về thực phẩm hữu cơ; Eric Cutter - chuyên gia nông nghiệp tái tạo mang lại giải pháp trong không gian nhỏ của đô thị nhưng cho năng suất cao với các hộp rau đặt thẳng đứng chứa compost giàu dinh dưỡng, sử dụng ít nước, ít phân bón hơn so với canh tác thông thường; và Michael Smith - nhà khoa học phát minh Green Power House, tòa nhà được thiết kế dùng năng lượng mặt trời và tảo để xử lý chất thải nông nghiệp tạo ra than sinh học (biochar) và chất kích thích sinh học dạng lỏng thúc đẩy quá trình tái tạo đất. 

Hành trình của những con người tuyệt vời và đầy nhiệt huyết này không hề dễ dàng khi phải đối mặt với những trận chiến khó khăn để thuyết phục các ngành công nghiệp và chính phủ cho phổ biến rộng rãi ý tưởng của mình. Họ đã có lúc thất bại, hay gặp cả tai nạn như việc toàn bộ tòa nhà Green Power House từng bị cháy rụi. Bất chấp những thử thách đó, họ đã không bỏ cuộc và tiếp tục lan tỏa những điều tốt đẹp. 

Cả ba nhân vật đều thật đáng được trân quý như những người hùng của cuộc cách mạng thực phẩm! Tôi muốn nói thêm một chút về Michael Smith và phát minh xuất sắc, quá ấn tượng của ông.

GREEN POWER HOUSE (NGÔI NHÀ NĂNG LƯỢNG XANH)

Với Green Power House, sáng chế có tiềm năng biến đổi thế giới (game-changing technology), một kết hợp tuyệt vời giữa công nghệ tiên tiến và trí tuệ sinh thái của tự nhiên, Michael Smith được ví như thiên tài Nichola Tesla thời hiện đại. Tầm nhìn xa rộng phi thường, những suy tư minh triết sâu sắc và trăn trở đầy tâm huyết của ông trong phim thực sự chạm đến trái tim, không khỏi làm chúng ta xúc động. Ông như một vị thiên sứ đã mang đến cho nhân loại đang khủng hoảng trên hành tinh này một giải pháp cứu rỗi trái đất, giải quyết đồng thời nhiều vấn đề môi trường, nông nghiệp và năng lượng tái tạo.



Tòa nhà vòm có hình dạng kim tự tháp lục giác Green Power House là một hệ thống thông minh tự động (intelligent self-management system) khép kín, tích hợp công nghệ kỹ thuật số và AI vận hành các bể sinh học nuôi tảo, kết hợp với thiết bị nhiệt phân, tạo ra đồng thời điện năng và chất giúp tăng tốc quá trình tái tạo đất là than sinh học và chất kích thích sinh học hữu cơ dạng lỏng. 

The Dragon - Con Rồng

Nối với tòa nhà vòm lục giác là hệ thống nhiệt phân hiện đại được gọi là Con Rồng (The Dragon). Khi sinh khối là các phế phụ phẩm nông nghiệp đi vào Con Rồng, nó sẽ được nung lên đến gần 1000 độ F (538 độ C). Điều kiến yếm khí, không có oxy, ngăn chặn sự đốt cháy, cho ra một cấu trúc carbon ổn định, tương tự như than củi (charcoal). Hoàn toàn độc lập, không gắn với lưới điện quốc gia (off-grid), nhiên liệu mà Green Power House sử dụng chỉ là năng lượng mặt trời và sinh khối chất thải nông nghiệp. Nhiệt tạo ra, vốn là sản phẩm phụ từ hoạt động của Green Power House, đủ cung cấp điện cho 100 ngôi nhà mỗi ngày hoặc cho nhà kính có thể trồng thực phẩm hữu cơ quanh năm ở mọi vùng khí hậu.


Biochar - Than sinh học

Than sinh học đang nổi lên như một trong những giải pháp tốt nhất cho vấn đề biến đổi khí hậu bởi việc tạo ra nó làm cô lập carbon; carbon thay vì phát thải vào không khí sẽ được lưu trữ trở lại vào trong đất. Có cấu trúc carbon cực kỳ bền vững với vô số các lỗ rỗng, tạo ra diện tích bề mặt lớn trong một không gian nhỏ, than sinh học có khả năng hấp thụ cao. Cấu trúc này là nền tảng tối ưu cho sự phát triển của các vi sinh vật có lợi trong đất, giúp nâng cao lượng mùn, tăng khả năng giữ nước, giữ chất dinh dưỡng, tạo ra các không gian cho không khí và vi sinh vật đất đi vào, từ đó giúp tái tạo đất và tăng cường sức khỏe của đất canh tác.


Green Power House có thể cố định trên 1 tấn carbon mỗi ngày, tương đương với khả năng hàng ngàn cái cây để làm công việc tương tự.

Công nghệ tảo thủy sinh - Algae Aqua Culture Technology

Các bể sinh học là hệ thống tự điều chỉnh (self-regulating system). Tảo là một trong những sinh vật tạo ra vật chất hữu cơ nguyên sơ trên bề mặt hành tinh và có khả năng sinh sôi rất nhanh chóng, nó giàu dinh dưỡng và có hàm lượng năng lượng cao. Khí carbonic được liên tục cung cấp từ Con Rồng cho các bể nuôi tảo. Tảo được thu hoạch với khối lượng lớn nhanh chóng mỗi ngày. Thông qua quá trình chuyển hóa sinh học, tảo trở thành phân bón giàu chất dinh dưỡng hữu cơ, kết hợp cùng với than sinh học, tạo ra một chất kích thích có thể giúp tái tạo đất mạnh mẽ. 


Methan, sản phẩm phụ của quá trình chuyển hóa tảo được đưa trở lại vào Con Rồng cung cấp nhiệt năng và xử lý tiếp tục phế thải sinh khối từ nông nghiệp. 

Như vậy, trong mỗi thành phần của Green Power House, đầu ra của bộ phận này trở thành đầu vào của bộ phận khác, tạo nên một hệ thống thực sự khép kín, tự vận hành, không chất thải và còn giúp cố định carbon.

Kỳ diệu là chỉ trong vòng 4 - 5 ngày, Green Power House có thể làm được điều mà thiết bị bình thường phải mất cả tháng, và tự nhiên có thể mất đến hàng trăm năm để chuyển hóa! Việc cô lập carbon hay chuyển hóa tảo, tất cả đều là những quá trình tự nhiên trong một vòng tuần hoàn khép kín và chìa khóa đơn giản chỉ là việc tìm ra cách gia tốc nó. Công nghệ này mở ra cơ hội tuyệt vời thực sự có thể làm thay đổi cách chúng ta sống, quay trở lại với các quá trình tự nhiên, vốn không có rác thải (zero waste).

Green Power House duy trì bên trong nó kiểu khí hậu nhiệt đới, có thể trồng được cả chuối và dứa, trong khi mùa đông ở bang Montana, nơi đặt tòa tháp vòm này, có lúc chạm ngưỡng âm 20 độ F (- 29 độ C). Hãy tưởng tượng sẽ lợi ích như thế nào khi chúng ta thiết lập được các Green Power House như thế trên khắp thế giới, giúp xử lý rác thải để cung cấp năng lượng cho cộng đồng, cung cấp thực phẩm tươi ngon, đảo ngược tình trạng biến đổi khí hậu, tái tạo đất gần như ở bất kỳ môi trường nào. Điều này cuối cùng dẫn tới sự độc lập về năng lượng, an ninh lương thực và tự chủ về thực phẩm.



Chủ Nhật, 11 tháng 6, 2023

Singapore và câu chuyện quy hoạch đô thị

 


Tính đến thời điểm hiện tại, hơn nửa dân số thế giới đang sinh sống trong các đô thị. Những mặt trái của quá trình đô thị hóa trên toàn cầu đã được nói đến nhiều, ô nhiễm môi trường, tiếng ồn, tắc nghẽn giao thông, vấn nạn rác thải... Một nơi sống lý tưởng với riêng cá nhân tôi, có lẽ sẽ giống một làng quê hay vườn rừng hơn, “nơi bình yên chim hót”, trong một cộng đồng tỉnh thức, gắn kết, có đời sống tinh thần phong phú và sâu sắc. 

Tuy vậy, tôi không thể phủ nhận những ưu việt của đô thị như là chốn tụ hội tri thức, tập trung những sinh hoạt văn hóa sáng tạo, hiện đại, đổi mới và thú vị. Thực ra, thành phố và thiên nhiên không nhất thiết phải loại trừ lẫn nhau, nhất là khi đô thị được quy hoạch tốt, hướng đến sự phát triển bền vững và tái tạo. [Nói đến đây làm tôi nhớ Đà Lạt và thấy tiếc quá, bởi Đà Lạt thiên nhiên thơ mộng trong ký ức tuổi thơ của tôi đã không còn. Một Đà Lạt từng được người Pháp quy hoạch với ý tưởng “thành phố trong rừng - rừng trong thành phố”].

Quy hoạch đô thị phức tạp bởi nó liên quan đến nhiều nhân tố luôn biến động và việc đáp ứng cho nhu cầu đa dạng của số lượng lớn con người. Nhà quy hoạch cần có tầm nhìn xa ở tương lai, nếu không chúng ta sẽ cứ phải luôn chạy đuổi theo các nhu cầu của hiện tại. Bài toán quy hoạch đô thị đòi hỏi các chuyên môn liên ngành, đa ngành, cần sự hợp tác chung tay giải quyết của các chuyên gia từ nhiều lĩnh vực khác nhau. Một đô thị được quy hoạch tốt có thể tác động hữu ích lên rất nhiều khía cạnh đời sống hàng ngày của người dân, từ kinh tế, môi trường, xã hội, đến tâm lý và sức khỏe cộng đồng. 

CÂU CHUYỆN SINGAPORE

Cuối tháng 5 vừa qua, Nhã Nam và enCity tổ chức buổi tọa đàm, ra mắt bản dịch tiếng Việt cuốn sách “Biên Niên Sử Singapore về Quy Hoạch Đô Thị” với tác giả - Giáo Sư TS. Heng Shye Kiang, Đại học Quốc gia Singapore, cùng khách mời - TS. Nguyễn Anh Tuấn, Sở Quy hoạch – Kiến trúc TPHCM. Cuốn sách gốc nằm trong bộ 50 cuốn “Biên Niên Sử Singapore” bàn về 50 lĩnh vực chủ đề khác nhau - những gì đã làm cho Singapore trở thành Singapore như ngày hôm nay - được xuất bản nhân dịp kỷ niệm 50 năm độc lập của đảo quốc Sư Tử (2015). 

Điều gì đã khiến nơi từng là một trong những “khu ổ chuột tồi tệ nhất thế giới” (1948, báo cáo của Ủy Ban Nhà Ở, Anh Quốc) trở thành một thành phố xanh, sạch, an toàn, đáng sống với tầm vóc toàn cầu ngày nay? Kỳ tích của đảo quốc này thật truyền cảm hứng, xứng đáng để nghiên cứu và suy ngẫm. Tất nhiên, có rất nhiều yếu tố tạo nên bức tranh của Singapore hôm nay. Dưới đây chỉ phản ánh một số điểm chính mà tôi ấn tượng về đảo quốc Sư Tử, qua buổi tọa đàm và từ cuốn sách. 

1. Tinh thần tự cường, vượt khó. Là một đảo quốc nhỏ, với quỹ đất hạn chế, khan hiếm tài nguyên và nguồn nước, Singapore rất ý thức về những khó khăn của mình và tầm quan trọng của việc phải quy hoạch đất nước một cách cẩn trọng, hiệu quả, không thể cho phép ô nhiễm hay lãng phí. Singapore nghiêm túc, trung thực đối mặt với những thách thức của chính mình, trong một tinh thần cầu tiến, nỗ lực không ngừng để hoàn thiện. Trỗi dậy từ khởi đầu khiêm tốn, Singapore kiên trì tiến bước, biến khó khăn thành động lực cho những sáng kiến phát triển. 

2. Chính phủ một cấp, minh bạch, chí công vô tư. Vừa là một thành phố, vừa là một quốc gia, Singapore có cách tiếp cận “toàn chính phủ”. Hệ thống nhà nước tập trung tạo điều kiện cho hợp tác liên ngành, phối kết các cơ quan khác nhau, và có thể phản ứng nhanh nhạy trong những tình trạng khẩn cấp. Quy hoạch sử dụng đất tổng thể tham vấn kỹ lưỡng nhiều cơ quan chính phủ và các bên liên quan, đồng thời được triển lãm toàn quốc để công chúng góp ý. Quy hoạch cũng được rà soát, cập nhật định kỳ và minh bạch, công khai trực tuyến cho người dân ai cũng có thể truy cập. Chính phủ không thay đổi nhiều suốt 30 năm qua tạo thuận lợi cho việc quy hoạch dài hạn. Đồ án quy hoạch mang tính kế thừa, ổn định, đồng thời liên tục cập nhật dựa trên dữ liệu thực nghiệm và linh hoạt trong thực thi, cũng như luôn dành chỗ cho sự sáng tạo đổi mới. 

Hiện tại chính phủ sở hữu hơn 90% diện tích đất đai tại Singapore. Điều này tạo điều kiện cho việc quy hoạch cơ sở hạ tầng công cộng, đảm bảo các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội, quốc phòng, bảo vệ môi trường. Quy hoạch thực sự là công cụ của chính phủ giúp tối ưu quyền lợi quần chúng, hạn chế các tác động của thị trường cũng như việc đầu cơ đất đai. Kỳ hạn sử dụng đất công là 99 năm đối với nhà ở xã hội và 20 năm, 30 năm, 50 năm tùy loại dự án. Khi hết hợp đồng thuê, chính phủ thu hồi đất, giúp quỹ đất được tái tuần hoàn và tái phân bổ cho nhu cầu phát triển tương lai. 

3. Nhà ở xã hội (public housing). GS Kiang gọi việc quy hoạch nhà ở xã hội là “open hidden secret of our success” - một bí quyết mở cho thành công của Singapore. Ông nhấn mạnh nhà ở xã hội không chỉ cung cấp nơi sống cho người dân, mà còn liên quan đến bảo tồn và phát triển các di sản, chuyển dân từ khu vực trung tâm đã xuống cấp và tắc nghẽn nghiêm trọng sang các khu đô thị mới hiện đại, an toàn vệ sinh hơn (dù phần nào cũng cắt đứt mối gắn kết cộng đồng) đồng thời giải phóng quỹ đất trung tâm đắc địa. Các khu đô thị mới có khoảng cách hợp lý tới các tiện ích công cộng, được tách biệt nhau bởi các hành lang xanh nối với trung tâm tạo thành mạng lưới các công viên và không gian mở và hệ thống giao thông công cộng phủ kín toàn đảo. 

4. Tầm nhìn xa, hướng đến tương lai và sự phát triển bền vững. Từ khi độc lập, triết lý quy hoạch của Singapore luôn theo định hướng phát triển bền vững,  thân thiện với môi trường, ngay cả trước khi các thuật ngữ này trở nên phổ biến. Môi trường xanh, sạch luôn là ưu tiên hàng đầu, chính phủ đầu tư mạnh tay vào cơ sở hạ tầng môi trường thân thiện với thiên nhiên ngay khi đảo quốc này vẫn còn là một nền kinh tế non trẻ. 

Quy hoạch luôn dành chỗ cho những mảng xanh, chú trọng phát triển các công viên và không gian xanh ngoài trời phục vụ cho việc giải trí của người dân. Hệ số sử dụng cây xanh tỉ lệ 3:5 được áp dụng trong thiết kế cảnh quan. Nỗ lực liên tục mấy chục năm qua, đến nay, hơn 40% diện tích được phủ xanh và Singapore trở thành một trong những “thành phố vườn” xanh nhất thế giới. Chương trình phủ xanh đã giúp cải thiện thẩm mỹ cảnh quan đường phố, cung cấp bóng mát, giảm hiệu ứng đảo nhiệt đô thị, giảm tiếng ồn và khói bụi, nâng cao chất lượng đời sống. 

Singapore tận dụng mọi không gian cho mảng xanh. Các ý tưởng vườn trên cao được chương trình cảnh quan và không gian đô thị (URA) Singapore giới thiệu năm 2009. Chính phủ tài trợ đến 50% chi phí lắp đặt vườn đứng (cây cối phủ trên bề mặt đứng) và vườn sân thượng trên các cao ốc. Sáng kiến nông trại dọc (vertical farming) sử dụng thủy lực - Sky Greens của Singapore là giải pháp đô thị hướng đến sản xuất rau quả an toàn, tươi ngon trong khi sử dụng tối thiểu đất, nước và năng lượng. 

Dải thực vật và mái xanh trên các tòa nhà được thiết kế để lọc nước mưa, cải thiện chất lượng nước chảy vào sông. Bên cạnh phát triển công nghệ lọc nước thải, khử muối nước biển, nước mưa được tận dụng và thu gom qua hệ thống hồ chứa và mạng lưới phủ khắp đảo quốc.

Một nỗ lực lớn phối hợp nhiều bộ và cơ quan chính phủ kéo dài trong 10 năm là chiến dịch làm sạch sông ngòi năm 1977, loại bỏ dần các ngành gây ô nhiễm như sửa chữa đóng tàu, di dời các xưởng thủ công, trang trại chăn nuôi gây ô nhiễm ở thượng nguồn, nạo vét lòng sông. Chiến dịch nhấn mạnh tầm quan trọng của việc quản lý ô nhiễm tại nguồn, thiết lập các hệ thống thoát nước và nước thải riêng biệt để giữ các kênh nước sạch sẽ và kiểm soát lũ lụt.

Sáng kiến năm 2006, chương trình nước sạch, đẹp, tích cực (ABC Waters - Active, Beautiful, Clean Waters) được đưa ra nhằm chuyển đổi các cơ sở hạ tầng “xám” như cống, kênh đào, hồ chứa… thành mạng lưới đường thủy xanh lam, tạo ra không gian cộng đồng cho các hoạt động vui chơi giải trí, thể dục thể thao. 

5. Quy hoạch không gian ngầm. Khai thác không gian ngầm khá đắt đỏ mà không phải thành phố nào cũng có khả năng thực thi. Bên cạnh hệ thống tàu điện ngầm, giờ đây Singapore còn có cả các đường hầm hạ tầng đô thị như hệ thống đường hầm nước thải sâu dưới lòng đất liên kết đến 3 nhà máy xử lý nước thải. Những khu vực an ninh quốc phòng, cơ sở đạn dược bảo quản an toàn vật liệu cháy nổ cũng được ngầm hóa để giải phóng đất bề mặt làm không gian công cộng cho người dân giải trí. Hang đá Jurong lưu trữ dầu ở sâu dưới đáy biển. 

6. Rewild Singapore! Thiên nhiên hóa (hoang dã hóa) nhằm tăng tính đa dạng sinh học, đưa Singapore ngày càng gần nhiều hơn với tự nhiên. Đây là điều tôi thích thú nhất từ buổi tọa đàm, và nó không có trong sách, vì cuốn sách gốc tiếng Anh được xuất bản năm 2015, trong khi ý tưởng hay ho này mới chỉ được đưa vào ở Singapore từ năm nay 2023. 

Theo GS Kiang, ý tưởng này cần một sự chuyển đổi về tư duy trong quy hoạch đô thị xanh! Đây là một kế hoạch dài hạn nhằm đưa vào các hành lang sinh thái, cho phép sinh vật di chuyển từ những khu vực sinh thái khác nhau với nhau bên trong hành lang. Tất nhiên điều này cũng sẽ dẫn đến khả năng về những cuộc “chạm trán” giữa con người với động vật như heo rừng, khỉ xuất hiện trước nhà dân chẳng hạn. 😆

Thiên nhiên hóa không chỉ là việc trồng cây mà là trồng nhiều loại cây đa dạng khác nhau. Đó là sự chuyển đổi từ cảnh quan được cắt tỉa cẩn thận sang trạng thái hoang dã tự nhiên có chủ ý, cân bằng giữa sự phát triển của thực vật được trồng và phát triển tự nhiên, tạo nên hệ sinh thái riêng của nó. 
Cuối cùng, mặc dù việc lãnh đạo của chính phủ rõ ràng rất quan trọng, một quốc gia muốn phát triển bền vững chắc chắn cần có những người dân với ý thức cao về trách nhiệm xã hội và môi trường. Điều này luôn quay về chủ đề quan trọng muôn thuở, giáo dục nâng cao nhận thức cộng đồng!


Thứ Ba, 27 tháng 9, 2022

Huy viết về SECMOL và Travel School 2022 - Ladakh

Trở về từ chuyến đi với thật nhiều điều muốn viết mà vẫn chưa viết được vì phải giải quyết nhiều công việc. Mình lưu lại tạm ở đây những bài viết của Huy vì những đồng cảm, và Huy đã nói lên chính xác nhiều điều mình muốn nói, nhất là về SECMOL. Lúc nào sắp xếp được thời gian, mình sẽ viết thêm về chuyến đi, với cảm nhận về những người bạn đồng hành thú vị và những bài học từ Ladakh...

Thank you and love you all! 💗

---

VCIL Travel School 2022- Ladakh, by Huy Pavel

Vậy là hành trình 15 ngày của chương trình VCIL Travel School 2022: Ladakh - Mindful Travel & Sustainable Development đã đến hồi kết thúc. Hành trình này không quá ngắn, nhưng cũng không quá dài, nó vừa đủ để mỗi người tham gia tự rút ra những bài học, những chiêm nghiệm, cũng như tự đặt ra những câu hỏi cho bản thân mình, về sự phát triển, về toàn cầu hóa hay thử thách những niềm tin và hiểu biết của bản thân.

Thời gian ở Ladakh, tất cả mọi người đều có cơ hội trải nghiệm những thứ mới lạ. Từ việc di chuyển ở độ cao hơn 3500m, cộng với cái nắng gay gắt vào ban ngày và không khí loãng hơn bình thường, đến việc ăn những món ăn do chính người dân địa phương chuẩn bị với những nguyên liệu hữu cơ từ vườn; đến việc dạo quanh khu phố cũ của Leh và ngắm nhìn sự thay đổi nhanh chóng với lối kiến trúc hiện đại của những căn nhà ở trung tâm thành phố; hay việc sống chung với người dân ở các ngôi làng xa xôi trên những ngọn đồi, để sống lối sống của họ, làm những công việc họ làm, nghe những câu chuyện họ kể. Tất cả là để mỗi người tự trải nghiệm và học những bài học của riêng mình; và thấy được một bức tranh lớn hơn, đầy đủ hơn về tác động của toàn cầu hóa, câu chuyện giáo dục và câu chuyện biến đổi khí hậu.

Dù chúng ta là ai, khi đã đặt chân đến một vùng đất nào đó, tức là chúng ta đã bắt đầu tạo tác động lên địa phương ở đấy rồi. Do đó trong suốt chương trình, chúng tôi muốn truyền tải đến mọi người về khái niệm Mindful Travel (du lịch tỉnh thức), giúp mỗi người hiểu hơn về những tác động của mỗi cá nhân mỗi khi đi du lịch lên cộng đồng địa phương.

Trong những bữa ăn, chúng tôi được ăn những thực phẩm hữu cơ, được trồng ở địa phương, thay vì phải ăn những thực phẩm được vận chuyển từ xa, gây phát thải khí carbon trong quá trình vận chuyển. Buổi sáng thức dậy, bọn tôi được người dân mời đủ thứ trà ở Ladakh: trà masala, trà bơ, trà đen. Điều không thể thiếu ở chương trình chính là những món ăn chậm chất Ladakh: "màn thầu" momos, món súp Tây Tạng Thukpa, món "bánh nước" Chhutagi hay rượu lúa mạch lên men Chhang.

Ở những ngôi làng như Tarchit hay Thiksey, chúng tôi luôn có cảm giác an tâm. Bước ra khỏi ngôi nhà, chúng tôi có thể thấy được con suối ngay trước mặt là nguồn nước để uống mỗi ngày. Chúng tôi biết được thức ăn được trồng ở ngay trong vườn, cần là ra vườn hái ăn, hay đến từ những khu chợ do chính dân làng tự trồng lấy và buôn bán. Chúng tôi cũng biết được chất thải của chúng tôi sẽ được xử lí như thế nào bằng cách sử dụng nhà vệ sinh khô... Điều này rất khác so với khi chúng ta sống ở thành phố, nơi mà chúng ta rất khó để xác định được nguồn gốc ly nước ta uống, thức ăn chúng ta ăn hay chất thải của con người sẽ đi về đâu.

Chúng tôi ở những ngôi nhà do người dân địa phương đón tiếp, nơi chúng tôi gọi là Guest House. Nhờ vậy, chúng tôi cũng có cơ hội trải nghiệm sâu sắc những nét đẹp truyền thống, mang đậm văn hóa người dân Ladakh. Chúng tôi lúc nào cũng được ngồi ở Chansa, phòng ăn truyền thống của người Ladakh, nơi cũng là thành phòng bếp vào mùa đông và phòng khách mỗi khi cần.

Điều thú vị nhất mà chúng tôi được trải nghiệm là văn hóa hiểu khách của họ, đôi lúc chúng tôi ăn no căng bụng nhưng vẫn bị các cô chú chủ nhà nhiệt tình bỏ đồ ăn vào đĩa, đến nỗi mỗi đứa phải la lên "dikley" hay thậm chí giấu đi cái đĩa để khỏi "bị" bỏ thức ăn vào nữa. Chúng tôi còn có cơ hội mặc thử Lokpa - trang phục truyền thống được sử dụng trong các dịp lễ, cưới của người Ladakh; trải nghiệm đội Perak; hay được học cái bài dân ca từ các Ama, Ana, Ale.  Điều này khác với kiểu du lịch truyền thống, khi khách du lịch có xu hướng đến thăm những nơi nổi tiếng, đi nhiều nhưng không kết nối được bao nhiêu với vùng đất họ đặt chân đến, không chạm được một cách sâu sắc đến văn hóa, lịch sử bản địa.

Không chỉ đến ở nhà của người dân trong thành phố ở Leh, chúng tôi còn đến ở những ngôi làng cách thành phố hơn 5 giờ đi xe, ngôi làng Tarchit hay Thiksey, để xem lối sống đậm chất Ladakh là như thế nào. Chúng tôi đến thăm những trường học như SECMOL hay HIAL để thấy được những nỗ lực của người dân trong việc giải quyết các vấn đề do hệ thống giáo dục hiện đại gây ra ra sao. Hoặc chúng tôi tham gia những workshop, webinar được tổ chức bởi các NGOs như Local Future, The Woman's Alliance of Ladakh để biết được những vấn đề và khó khăn mà Ladakh phải đối mặt và cách những tổ chức này góp phần để giải quyết các vấn đề đó.

Một lần nữa, những trải nghiệm này giúp cho mỗi người thấy được một bức tranh lớn hơn, đầy đủ hơn về tác động của toàn cầu hóa, câu chuyện giáo dục và câu chuyện biến đổi khí hậu.

Đi du lịch không chỉ để mà đi, mà còn là một phương thức để thúc đẩy nền kinh tế địa phương một cách bền vững thông qua những lựa chọn có ý thức. Trong suốt chuyến đi, chúng tôi ở nhà người dân, ăn thức ăn địa phương, mua sách của các NGO địa phương,.. qua đó giúp nền kinh tế địa phương phát triển mạnh mẽ và bền vững.

Ở vai trò là người đi du lịch, hay người tiêu dùng, chúng ta có quyền lực để định hình nên xã hội ta muốn xây dựng. Với mỗi quyết định tiêu dùng được đưa ra, ta đã góp phần định hình nên xã hội mà ta muốn xây dựng. Câu hỏi ở đây là, bạn lựa chọn điều gì? Và những lựa chọn đó gây nên những tác động gì? Đó cũng là những câu hỏi mà VCIL Travel School 2022: Ladakh - Mindful Travel & Sustainable Development muốn đặt ra cho người tham gia, và mỗi người sẽ phải tự đưa ra câu trả lời cho riêng mình!

NGƯỜI NHẠC SĨ TRÊN DÃY HIMALAYA 

Tôi gặp anh trong một buổi trò chuyện với những nhà khởi nghiệp địa phương ở Leh, Ladakh. Anh là một nhạc sĩ. Anh có tình yêu lớn với quê hương Ladakh của mình. Anh cũng có một tình yêu sâu đậm khác, đó chính là âm nhạc. 

Mỗi người nhạc sĩ có một hướng đi âm nhạc riêng của mình, anh cũng thế. Anh muốn hát về những câu chuyện của người Ladakh, cover lại những bản nhạc dân ca giản dị mà chất phát của tổ tiên mình. Và tất nhiên, anh làm điều đó theo cách riêng của mình.

Người ta muốn anh hát những bài dân ca bằng nhạc cụ truyền thống. Anh hát nó với cây đàn ghi-ta hiện đại. Anh làm họ điên lên vì điều đó. Người ta chửi bới, phát xét rằng anh đang phá hoại văn hóa truyền thống. Tuyệt lắm, anh cười với tôi, người ta còn nói về nhạc dân ca, tức là nó vẫn còn sống.

Âm nhạc không có hình dáng, vô hình vô tướng, nó chỉ đơn giản là âm thanh. Miễn nó truyền tải được câu chuyện của người Ladakh, lối sống của người Ladakh, tinh thần của người Ladakh, thì tôi chơi nó, tội gì phải phân biệt nhạc cụ truyền thống với cây đàn phương tây. Thế giới đổi thay, văn hóa cũng biến chuyển theo, âm nhạc cũng thế, tội gì phải dính mắc vào cái phương tiện. Đừng đóng khung chúng lại rồi giam chúng vào bảo tàng kí ức, như cách người ta làm với mấy cái ly, tách, đồ vật trong bảo tàng ngày nay. Mấy cái thứ đó đã chết rồi. Âm nhạc thì nó không chết, nó sống và nó tiếp tục biến đổi theo thời đại.

Dù sao thì âm nhạc cũng là do con người làm ra, cớ sao lại phân biệt quá khứ, tương lai, hiên đại, truyền thống làm gì, con người giống nhau cả mà, anh nói thêm.
...
Cuối buổi, anh muốn biểu diễn cái thứ âm nhạc mà anh nhắc đến cho mọi người. 
Anh biến tấu một đoạn kinh Phật trong Phật giáo Tây Tạng thành một đoạn nhạc hùng hồn, mạnh mẽ, làm kinh ngạc tất cả mọi người. Người tròn xoe mắt ngạc nhiên, người nín thở, người bịt mồm lại để khỏi phải phát ra một thành nào đó có thể làm hỏng bài hát.
Hôm đó, mọi người thấy sự tư do.
Hôm đó, mọi người thấy sự giải thoát.
Hôm đó, mọi người thấy sự hòa hợp.
Anh ấy thể hiện điều đó chỉ qua những âm thanh trầm ấm mà mạnh mẽ. Nhẹ nhàng mà vang vọng. Đơn giản mà sâu sắc. 
Anh ấy là một nhạc sĩ trên dãy Himalaya.


CẢM NHẬN VỀ SECMOL 

Chuyến đi này mình gặp nhiều thứ đáng nhớ lắm. Từ trải nghiệm văn hóa ăn uống, tiếp khách, bày trí không gian, cầu nguyện, phật giáo Tây Tạng... đến gặp những người đồng hành có background đa dạng từ professional hip hop dancer, đến người làm Start-up trong lĩnh vực Tech-Ed hay thậm chí có người đang gap year sau khi đi làm,... mỗi thứ mình gặp đều khiến mình nhớ cả; thậm chí những lần mình cũng phải tự đẩy bản thân khỏi vùng an toàn như tắm nước lạnh buổi sáng sớm nè...

Nhưng mình muốn trả lời câu hỏi theo kiểu hướng về thứ chạm mình nhiều nhất, vì nó dễ trả lời =))) Trong hành trình 14 ngày ở LAdakh, mình có đến thăm một ngôi trường thay thế, alternative tên là SECMOL.

ĐÂy là một ngôi trường khá thú vị, nó đã truyền cảm hứng cho phân cảnh cuối của bộ phim 3 idiots, và thậm chí founder của nó cũng là inspiration cho nhân vật chính Rancho Chanchad. Tóm lược về ngôi trường này, thì đây là nơi dành cho những bạn học sinh bị fail kì thi tuyển vào lớp 10, đây là một ý tưởng khởi xướng bởi các bạn sinh viên ở Ladakh khi họ thấy giáo dục có quá nhiều vấn đề và cần thay đổi.

Điều khiến mình chạm nhất ở đây, chính là việc các bạn học sinh được thấy được những hi vọng về chính bản thân, có cơ hội được tin vào chính mình và khám phá được tiềm năng bên trong.

Mình gặp và trò chuyện vs rất nhiều bạn ở đây, câu hỏi mình đặt ra là bạn đã thay đổi gì sau khi học ở đây một khoảng thời gian. Đa phần các bạn đều cho một sự so sánh tương tự như vầy: Trước kia các bạn tin là mình ngu, kém cỏi, thất bại, vô dụng, không biết làm các công việc đơn giản như rửa chén, quét nhà, làm vườn, sửa chữa đồ đạc, nay các bạn đều làm được những việc đó, thậm chí còn phát triển được các năng khiếu nghệ thuật nữa. Mình rất bất ngờ khi thấy trong thời gian rảnh, có bạn ngồi nặn đất sét, có bạn ngồi vẽ trên đá, có bạn ngồi thiết kế ngôi nhà bằng gỗ, có bạn ngồi viết nhạc... đây là những điều mà các bạn chưa bao giờ nghĩ bản thân sẽ làm. Đó là vài thay đổi bên ngoài.

Các bạn chia sẻ giờ đây các bạn không còn tự gán cái mác ngu si, kém cỏi nữa, mà cảm thấy tự tin vào chính mình hơn. Khi đến campus SECMOL, người hướng dẫn, giải thích về trường cho tụi mình là chính các bạn học sinh và một vài bạn TNV. Mình có hỏi sau này các bạn muốn làm gì, dù rụt rè, nhưng các bạn đã dám nói lên ước mơ của mình. Bạn thì muốn làm người dẫn đoàn trekking trên dãy himalaya, bạn thì muốn làm bartender sau khi tốt nghiệp, bạn thì muốn trở thành animator,... Các bạn cũng được học cái entrepreneurship ở đây, khi tất cả các vấn đề đối mặt các bạn đều tự tìm cách giải quyết bằng nguồn lực có sẵn và tri thức của chính mình. Những thứ này sẽ là nền tảng để các bạn làm những thứ mình mong muốn sau này.

Những thay đổi đấy cho thấy được tầm quan trọng của giáo dục và tiềm năng con người. Với triết lý, mục đích và phương pháp giáo dục phù hợp, ta có thể thúc đẩy con người phát triển theo hướng phù hợp nhất với họ. 

Nói thế không có nghĩa trường này là perfect. Nó vẫn có nhiều thứ có thể làm tốt hơn nữa. Nhưng nó là một case rất thú vị, về cách nó làm giáo dục, và cách nó kiên định với mục đích của mình.

Mình có trao đổi vs một số bạn, thì có bạn bảo sao hông scale up cái model này lên khắp thế giới đi, nó hay vậy mà, sao hông đào tạo giáo viên đi, để về dạy ở các trường mainstream truyền thống.

Mình thấy đơn giản đó không phải mục tiêu của SECMOL và sứ mệnh nó muốn theo đuổi. SECMOL muốn tập trung vào các bạn fail lớp 10 ở LADAKH, cho thấy một cách giáo dục thay thế nền giáo dục truyền thống - nơi không có một chút liên hệ gì đến đời sống bản địa và chỉ lan tỏa sự độc canh văn hóa, độc canh tư duy.

Việc tập trung vào các bạn học sinh rớt lớp 10 được thể hiện rất rõ trong cách tuyển sinh, thiết kế chương trình và cách vận hành trường học (các bạn tự vận hành toàn bộ các hoạt động ở đây).
Một thứ khác nữa, đó là SECMOL có giới hạn về nguồn lực con người, tài chính, nên không thể scale up được. Với lại khi Scale up thì rất khó kiểm soát và tập trung được chất lượng, làm không khéo thì có khi lệch khỏi con đường ban đầu.

SECMOL rất hay, nhưng chính quyền không thích cũng chịu, cho nên dù có training cho giáo viên thì cũng khó áp dụng được trong môi trường mainstream, nơi chịu sự kiểm soát của chính phủ. Một trong những mục tiêu ban đầu ở SECMOL là tái thiết giáo dục (Educational Reform) ở Ấn Độ nói chung. Nhưng rất tiếc kế hoạch này bị đổ vỡ vào năm 2007 khi chính quyền "tấn công" vào SECMOL, để rồi cuối cùng trường này phải rút khỏi việc can dự vào giáo dục truyền thống, thay vào đó chỉ tập trung ở mỗi Leh mà thôi.
----
Câu chuyện của SECMOL là câu chuyện về sự hiểu mình, biết được nguồn lực của mình là gì, mục tiêu sứ mệnh mục đích là gì. Nếu mình không rõ cái đó, thì mình dễ sa đà vào những cái thứ cấp không ăn nhập với con đường đã chọn ban đầu, như thế rất nguy hiểm. Sau khi học bài học đó, SECMOL lại quay về đúng việc của mình, tập trung vào các bạn học sinh rớt lớp 10.

Còn để giải quyết câu chuyện lớn hơn, to hơn, nó phải nhờ một hình thái khác của nó: HIAL – Himalayan Institute of Alternative Ladakh, để đi chuyên sâu hơn, rộng hơn và làm được nhiều chuyện hơn - những thứ với tư cách SECMOL không thể làm được. Đối tác của HIAL ở level chính phủ, chứ không còn nhỏ lẻ ở địa phương nữa.

Mình nghĩ SECMOL là trải nghiệm đáng nhớ nhất của mình, nó cũng là cái nhắc nhở bản thân mình về những gì mình làm. Không cần làm to, làm lớn làm gì, chỉ cần giúp được một cá nhân, một nhóm nhỏ là đủ rồi. Còn sau đó impact có được nhân lên hay không, có thì tốt, không có thì cũng chẳng sao. Miễn là mình thấy vui, và bạn bè, cộng cồng xung quanh mình được hưởng lợi chút gì đó là mình thấy quá tuyệt rồi.

Huy Pavel



Thứ Tư, 21 tháng 2, 2018

Ước mơ thơ trẻ


Mình còn nhớ đó là khoảng năm lớp 3, khi mình được bước vào thế giới thú vị của cô bé Tottochan hiếu động đáng yêu cùng những ký ức trong trẻo về ngôi trường Tomoe độc đáo trên những toa tàu. Có lẽ những ai đã đọc “Tottochan, Cô Bé Bên Cửa Sổ” đều mơ ước về một môi trường giáo dục hướng tới sự phát triển tự nhiên như Tomoe, nơi trẻ em được tôn trọng, lắng nghe với tình yêu thương, khiến chúng lớn lên mạnh mẽ với lòng tự tin. Phải chăng anh Bút Chì cũng đã được truyền cảm hứng từ Tottochan mà lập ra Toa Tàu, “nơi người lớn được là trẻ con và trẻ con được là chính mình”; hay Hằng Đào và Quỳnh Anh với Potato Kids - những lớp học ngoại khóa cho trẻ em ở Hà Nội và Vy Le với Trại Hè Trẻ Đồng Xanh ở Hội An, “nơi trẻ được sống trong thiên nhiên và học từ thiên nhiên”?
Rồi mình vào đại học, chuyên ngành môi trường và mối quan tâm về giáo dục đã dẫn mình tới những khái niệm ‘giáo dục vì sự phát triển bền vững’, lối sống ‘Xanh’, và tư duy hệ thống…  Mình nhận ra rằng, đằng sau những vấn đề kinh tế, chính trị, môi trường, đằng sau bề mặt của những hiện tượng chính là vấn đề trong nhận thức, tư duy và hệ giá trị. Do đó, muốn hướng đến một xã hội phát triển bền vững, điều quan trọng là phải thay đổi từ nhận thức, từ tầm nhìn của giáo dục. Cốt lõi của phát triển bền vững nằm ở việc trân trọng thiên nhiên như là biểu tượng của sự hợp nhất, minh triết và vẻ đẹp. Phát triển bền vững hàm chứa triết lý sống giản dị, tiêu thụ có trách nhiệm, và tinh thần trân trọng sự đa dạng, yêu thương, chăm sóc bảo vệ và hợp tác. Sự bền vững hướng đến những giá trị tốt đẹp, chân thực, mãi trường cửu với thời gian. “Sustainability is thinking about forever”.  Tư duy cho phát triển bền vững cần một tầm nhìn sâu sắc khi đối mặt với những lợi ích kinh tế hạn hẹp trước mắt mà tiềm ẩn nguy hại lâu dài về sau cho môi trường và sức khỏe cộng đồng. Tư duy hệ thống đó hướng đến mở rộng tầm nhìn để hiểu mối liên hệ tồn tại giữa mọi sự vật, nhận thức được nguyên nhân sâu xa ẩn dưới bề nổi của những hiện tượng tưởng chừng như riêng rẽ. Nó giúp ta thấy bức tranh chính xác hơn của hiện thực được nhìn từ nhiều góc độ, khuyến khích ta suy nghĩ sâu sắc hơn về vấn đề và đưa ra những giải pháp với tầm nhìn xa rộng và bền vững.
Vậy thì, làm thế nào để hiện thực hóa giáo dục vì sự phát triển bền vững?
Mùa hè năm 2008, mình được may mắn tham dự khóa học ngắn 2 tuần ‘Youth Encounter to Sustainability’ (YES) tại Áo.  Đó là một trong những kỷ niệm tuyệt vời mà bây giờ gần 10 năm rồi mình vẫn còn thấy thật vui khi nhớ lại. Bọn mình là 36 bạn trẻ đến từ 27 nước trên thế giới, từ những nền văn hóa khác nhau, tất cả đã cùng bên nhau, học và chơi hết mình suốt hơn hai tuần đó, cùng hát hò, nhảy múa, thân ái và gắn bó như một đại gia đình. Bọn mình đã được tiếp cận đến những mặt khác nhau của phát triển bền vững qua những bài giảng đầy cảm hứng, những buổi làm việc nhóm cùng giải quyết vấn đề, cùng thực hiện một dự án xuyên suốt khóa học, xem phim tài liệu, nói chuyện với chuyên gia, thảo luận, vẽ tranh tập thể, và trải nghiệm thực tế.  Bọn mình được tham quan những cánh quạt điện gió trong vùng, trang trại hữu cơ Amoda, nhà máy tái chế PET, trung tâm năng lượng tái tạo ở Grussing, bảo tàng kỹ thuật ở Vienna… Và có cả một ngày bọn mình được đắm mình trong thiên nhiên khi đi bộ trên vùng đất ngập nước trong công viên quốc gia và chèo thuyền dọc sông Đa-nuýp.
Lúc đó mình đã từng mơ có một ngày YES sẽ xuất hiện ở Việt Nam. Đúng một năm sau, cảm ơn Chị Nguyệt Live&Learn, mình vui mừng chứng kiến mô hình tích hợp nhiều hoạt động và trải nghiệm gần tương tự, VYS 2009, Diễn Đàn Thanh Niên & Phát Triển Bền Vững - chủ đề Biến Đổi Khí Hậu diễn ra trong 5 ngày tại Sóc Sơn, Hà Nội. Lần này mình tham gia với vai trò là người hỗ trợ, phụ trách đề tài về các nguồn năng lượng và môi trường. Các bạn trẻ năng động, nhiệt huyết với môi trường khắp ba miền đất nước sau đó đã cùng thành lập Mạng Lưới Thế Hệ Xanh Việt Nam và đến nay VYS mỗi năm vẫn được tổ chức duy trì. Mình vui mừng thấy hy vọng đang lan tỏa từ những hạt giống tích cực, tươi xanh đó.
Ai đó nói rằng “Sống là học.” Giáo dục không chỉ gói gọn trong bốn bức tường lớp học. Giáo dục là cả cuộc sống. Qua tương tác với gia đình, bạn bè, cộng đồng, chúng ta ‘học’ từ tất cả những trải nghiệm của mình, từ tất cả những người mà mình gặp, từ quan sát thiên nhiên. Nó liên quan đến toàn bộ cộng đồng, nó là cả một hệ sinh thái giáo dục.
Có phải tất cả chúng ta ai cũng ước mơ đến một thế giới ấm no tươi đẹp, công bằng, hòa bình và hạnh phúc, một xã hội hướng đến sự phát triển bền vững, nơi mọi người sống hòa hợp với thiên nhiên và chan hòa thân ái với nhau, với cỏ cây muôn loài? Cũng không quá mơ mộng lắm đâu, bởi những mô hình cộng đồng tỉnh thức, hướng đến phát triển bền vững đã được hiện thực hóa như ngôi trường xanh Green School ở Bali, hay Gaia Ashram ở Thái Lan, cộng đồng Findhorn ở Anh, mạng lưới các Làng Sinh Thái toàn cầu (Global Ecovillage Network) và Làng Mai trên khắp thế giới.  
Ở những cộng đồng tỉnh thức, người ta nhận ra và trân trọng tính nhất thể của vạn sự (Oneness). Mọi thứ đều kết nối và liên hệ lẫn nhau trong mạng lưới của đời sống. Tất cả là Một. Ý thức sinh thái sâu xa là ý thức tâm linh.
Thế nên, điều quan trọng không chỉ là cung cấp kiến thức, kỹ năng mà còn là nuôi dưỡng tâm hồn yêu thương, ý chí mạnh mẽ và trí tuệ, tạo nên những con người nhân ái, tự do và hạnh phúc. Những điều này được thể hiện trong triết lý giáo dục của Steiner mà mình rất tâm đắc. Tin vui là ở Việt Nam đã có những trường học với nền tảng triết lý giáo dục của Steiner như thế.
Bạn có thể đọc thêm về Giáo Dục Steiner ở link sau:
và bài viết của Chị Phan Lê Minh về “Tương lai của những trẻ em Steiner.”


Để khép lại những tản mạn này, mình xin trích dẫn ở đây đoạn viết về Giáo Dục Steiner ở link trên:


Giáo dục vì những đứa trẻ hạnh phúc, tự do và mạnh mẽ


“Triết lý giáo dục Waldorf Steiner hướng người học trở thành những con người cá nhân tự do, có đam mê và lý tưởng sống.


Nền giáo dục hiện ngay quá tập trung vào việc truyền đạt kiến thức, bồi đắp cho học sinh thêm sức cạnh tranh. Phương pháp giáo dục Steiner ngược lại, là nền giáo dục theo chủ nghĩa lý tưởng. Giáo dục rất gần với triết lý của Aristote: “Giáo dục TRÍ NÃO mà không giáo dục TRÁI TIM thì coi như không giáo dục gì cả”.


Các nhà trường theo Steiner không đặt mục tích tạo ra học giả, kỹ thuật gia, doanh nhân thành đạt… Mục tiêu là tạo nên những công dân tự do, không sợ hãi, sống hài hòa vui vẻ.
Trong môi trường giáo dục Steiner, nhà giáo tuyệt đối không áp đặt uy quyền lên học trò. Giáo viên chỉ đóng vai trò người dẫn đường để mỗi học sinh học tập bằng sự vui thích, khám phá.


Trẻ được học các môn rất phong phú: thủ công, hội họa, điêu khắc, kịch nghệ… đến ngôn ngữ, toán học, khoa học,… Từ các trải nghiệm thực tế, trẻ sẽ nhận biết thế mạnh, sở thích và đam mê của mình.


Các trường học Steiner không có cạnh tranh, thi đua, không có thưởng-phạt. Tư tưởng cốt lõi là xây dựng động lực bên trong mỗi học sinh. Trẻ đến trường sẽ cảm nhận tình yêu thương, ấm áp từ lớp học, từ thầy cô…


Học sinh Steiner thường được nhận xét là “Chơi nhiều hơn học”. Kỳ thực, việc dạy và học không tập trung vào kiến thức. Trẻ tiếp thu kiến thức, trải nghiệm nghệ thuật, tình yêu thiên nhiên qua hoạt động chơi. Từ đó, nuôi dưỡng ý chí, nuôi dưỡng năng lực và mong muốn làm việc của đứa trẻ qua từng giai đoạn.

Theo một công trình nghiên cứu tại châu Âu, người ta thấy rằng chỉ số sáng tạo của học sinh theo phương pháp giáo dục Steiner cao hơn học sinh nền giáo dục công. Học sinh Steiner cũng hạnh phúc với cuộc sống của mình, sống hòa đồng, bao dung và thích đóng góp cho xã hội hơn.”



Thứ Ba, 27 tháng 5, 2008

Cho ngày nay và cho muôn đời sau

Khi mới bắt đầu xuất hiện cách nay khoảng 30 năm, khái niệm phát triển bền vững (sustainable development, PTBV) được định nghĩa như là khả năng phát triển đáp ứng nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai. Có thể nói, nền tảng của sự bền vững nằm ở việc bảo đảm cho công lý, lẽ công bằng được hiển hiện. Dễ hiểu rằng mọi sự bất công đều tiềm ẩn những bất ổn dẫn đến sụp đổ. Sự công bằng và bình đẳng cần được tôn trọng: 

- không chỉ ở những người đang sống trong cùng một thời đại (intra-generational justice, tất cả mọi người trên hành tinh này, ít nhất về mặt nguyên tắc, có được quyền lợi bình đẳng)

- mà còn giữa thế hệ chúng ta đang sống với những thế hệ kế thừa (inter-generational justice, không làm tổn hại đến môi trường và vẫn để dành được tài nguyên cho các thế hệ tương lai).

Khái niệm PTBV giờ đây bao hàm và xoay quanh nhiều vấn đề của phát triển như xóa đói giảm nghèo, bình đẳng giới, nhân quyền, hòa bình, an ninh lương thực, bảo tồn đa dạng văn hóa, đa dạng sinh học, nước sạch và vệ sinh, phát triển năng lượng tái tạo, bảo vệ môi trường và sử dụng bền vững tài nguyên thiên nhiên… PTBV hướng đến bảo đảm chất lượng cuộc sống của tất cả mọi người trên thế giới hôm nay và muôn đời sau

UNESCO đề xuất 4 phương diện của PTBV: 

1. Bền vững về xã hội, tương ứng với hòa bình và công bằng.

2. Bền vững về sinh thái, tương ứng với bảo tồn môi trường, đa dạng sinh học (mở rộng ra, con người cũng cần tôn trọng quyền sống và phát triển của muôn loài, những người anh em cùng chia sẻ mái nhà chung Trái Đất với chúng ta).

3. Bền vững về kinh tế, tương ứng với sự phát triển hợp lý.

4. Bền vững và ổn định chính trị, tương ứng với dân chủ.

Như vậy, ta có thể hình dung ra một thế giới bền vững là khi: 

- Con người yêu thương hỗ trợ nhau và cùng trân trọng công bằng xã hội, hòa bình.

- Con người biết yêu quý, bảo vệ thiên nhiên và sử dụng tài nguyên hợp lý hơn mà không hoang phí.

- Xã hội phát triển đúng mực và bảo đảm chất lượng cuộc sống cơ bản cho tất cả.

- Những quyết sách của xã hội được đưa ra và thực thi trên tinh thần dân chủ, bình đẳng.

Tư duy cho PTBV cần một tầm nhìn sâu sắc hơn những lợi ích hạn hẹp trước mắt mà tiềm ẩn nguy hại lâu dài về sau. Sự bền vững hướng đến những giá trị tốt đẹp, chân thực, mãi trường cửu với thời gian. 

“Sustainability is thinking about forever”.
 
Tài liệu tham khảo

Thứ Hai, 5 tháng 5, 2008

Cái nhìn hệ thống về cuộc sống

Photo by Moaan

“Nhìn thế giới trong một hạt cát

Và Thiên Đàng trong một nhành hoa
Giữ vô tận trong lòng bàn tay
Và vĩnh cửu trong một giờ ngắn ngủi”
(Thơ William Blake)

1. Tư duy hệ thống

“The world we have created is a product of our thinking; it cannot be changed without changing our thinking“. - Albert Einstein

Tư duy hệ thống là phương pháp tư duy hướng đến mở rộng tầm nhìn để hiểu mối liên hệ tồn tại giữa mọi sự vật, nhận thức được nguyên nhân sâu xa ẩn dưới bề nổi của những hiện tượng tưởng chừng như riêng rẽ. Trong những hệ thống phức tạp như xã hội con người, nhân và quả không ”nhãn tiền” mà thường cách xa nhau trong thời gian và không gian. Do đó có lúc ta dễ tạo ra cái lợi trước mắt mà khó thấy được tác hại lâu dài về sau. Tư duy hệ thống giúp ta thấy bức tranh chính xác hơn của hiện thực được nhìn từ nhiều góc độ, khuyến khích ta suy nghĩ sâu sắc hơn về vấn đề và đưa ra những giải pháp với tầm nhìn xa rộng và bền vững. Vì vậy, nó đặc biệt cần thiết cho những người làm lãnh đạo, nhất là khi phải đưa ra những quyết định, sách lược quan trọng.

Phương pháp tư duy thông thường là tư duy tĩnh, tuyến tính, tập trung vào sự kiện, kết quả, xem Nhân-Quả là một chiều và mỗi nguyên nhân độc lập với các nguyên nhân khác. Trong khi đó, tư duy hệ thống là tư duy động - nhìn vấn đề dựa trên những kiểu mẫu hành xử (pattern of behaviour) theo thời gian, phi tuyến (tư duy vòng lặp), tập trung vào nguyên nhân, xem nguyên nhân như một quá trình chứ không chỉ là sự kiện chỉ xảy ra một lần, với kết quả phản hồi ảnh hưởng trở lại nguyên nhân và những nguyên nhân ảnh hưởng lẫn nhau.

Tóm lại, tư duy hệ thống là:

- Tư duy môi trường - bối cảnh (environmental thinking, contextual thinking), tư duy toàn thể (holistic thinking), mở rộng sự thấu hiểu về các liên kết tồn tại giữa các hiện tượng, giữa sự vật với môi trường. Để hiểu một sự vật thấu đáo, ta không chỉ chú tâm vào chi tiết mà còn phải cân nhắc đến bối cảnh xung quanh nó.

- Tư duy mạng lưới (network thinking), chú trọng vào mối quan hệ giữa các sự vật hơn là từng vật thể riêng lẻ, khuyến khích tương tác linh động giữa các cấp bậc trong hệ thống.

- Tư duy tiến trình (process thinking), hiểu rằng muốn thay đổi kết quả, trước hết phải thay đổi tiến trình dẫn đến kết quả, khuyến khích cách quản lý tập trung vào tiến trình hơn là thành quả (liên hệ đến giáo dục, cách đánh giá học sinh qua quá trình học hơn chỉ là điểm số của bài thi cuối cùng).

- Tư duy hồi quy (backward thinking), kiểm tra giả thuyết, đặt ra những câu hỏi hồi tiếp để đi đến tận cùng vấn đề, đây là công cụ bổ túc cho dự đoán (foresight). Đặt ra kế hoạch dựa trên tầm nhìn lý tưởng tốt nhất về tương lai (không giới hạn khả năng của mình). Từ đó, suy nghĩ ngược lại để xác định những phương thức có tiềm năng dẫn đến kết quả mong muốn đó. Chọn giải pháp thích hợp nhất và tối ưu hóa tất cả những bộ phận, mối quan hệ trong hệ thống theo đó. Chưa dừng lại ở đây, với những thay đổi mới, vòng lặp sẽ tiếp tục được lập lại để kiểm tra, điều chỉnh theo những phản hồi từ hệ thống.

Tư duy hệ thống khuyến khích chúng ta thấy rừng chứ không chỉ từng cái cây, ”see the forest for the trees”. Đứng trong rừng, ta chỉ thấy cây, muốn thấy cả khu rừng ta cần góc nhìn bao quát như từ trên cao xuống. Tương tự, những vấn đề rắc rối mà ta đang mắc kẹt nhiều khi không thể giải quyết bằng chính lối tư duy đã gây ra nó. Những lúc như vậy, ta cứ thư giãn, tĩnh lặng cho tiềm thức hành động, để tư duy của chúng ta được tự do sáng tạo, thoát khỏi lối mòn cũ.

Chúng ta thường dính mắc vào chi tiết, mà quên đi cái toàn thể. Như câu chuyện những thầy bói mù xem voi, người sờ tai voi thì bảo con voi giống như cái quạt, người sờ chân voi bảo nó giống như cột nhà… Nhưng hai nửa con voi không phải là một con voi, một hệ thống sống không chỉ gồm tổng thể các bộ phận của nó. Mỗi hệ thống là một toàn thể thống nhất.

Tầm nhìn hệ thống về cuộc sống nhìn thế giới qua các mối liên quan tương tác, kết nối lẫn nhau của mọi hiện tượng vật lý, sinh học, tâm lý xã hội, văn hóa. Phân tích – chia chẻ và tổng hợp là hai cách tiếp cận bổ túc, khi được sử dụng trong cân bằng chừng mực, sẽ giúp ta có được tri kiến sâu sắc hơn về hiện thực.

“Tầm nhìn hệ thống bắt đầu khi bạn nhìn thế giới qua con mắt của người khác”.

Có một điều thú vị là, càng nhìn cuộc sống qua cái nhìn hệ thống, càng mở rộng tầm hiểu biết bao nhiêu, chúng ta sẽ càng thấy mình trở nên khiêm tốn, thân thiện, dễ thích ứng, biết cảm thông, biết tôn trọng sự đa dạng, những ý kiến trái chiều, biết lắng nghe với tinh thần đón nhận cởi mở, khuyến khích mà không “phán xét”. Đây là những điều đã được nghiên cứu trong “Trí Khôn Hệ Thống” – Systems Intelligence, ngành học ứng dụng phương pháp tư duy hệ thống vào những hành xử đời sống hàng ngày.

(Chúng ta sống như những gì mình nghĩ, rồi đến lúc, ta sẽ nghĩ như lối tư duy mà mình đã theo đó sống và hành xử. Có lẽ ai cũng nhớ câu ngạn ngữ quen thuộc “gieo tư tưởng gặt hành vi, gieo hành vi gặt thói quen, gieo thói quen gặt tính cách, gieo tính cách gặt số phận”. Nhắc lại những điều này, là vì mình muốn nhấn mạnh vai trò quan trọng của tư tưởng và nhận thức đến cuộc sống của mỗi người.

Trong ba thứ “thân” (hành động), “khẩu” (lời nói), tâm “ý” (suy nghĩ), nghiệp được tạo tác từ “thân”, “khẩu” (hành động đã thực hiện, lời đã nói ra) thường gây ra hậu quả nặng hơn “ý” (chỉ mới là ý nghĩ). Nhưng ý lại được chú trọng nhiều hơn cả, bởi nó là cội nguồn cho hành động và lời nói)…

2. Thống nhất trong sự đa dạng

Trong những hệ thống sống nhiều bậc, mỗi bộ phận của nó lại là những hệ thống nhỏ (holons). Mỗi holon có hai khuynh hướng đối nghịch nhau: (1) hợp nhất với chức năng là thành phần của một tập thể lớn hơn, và (2) tự khẳng định để bảo tồn sự tự trị của chúng. Mỗi holon phải khẳng định “bản sắc” - đặc tính riêng của nó, để thực hiện chức năng của riêng mình, đồng thời nó cũng phải tuân theo những yêu cầu chung của cái toàn thể lớn hơn, để cả hệ thống có thể duy trì và tồn tại được. Hai khuynh hướng này tuy đối nghịch nhưng bổ túc cho nhau và đều cần thiết. Một hệ thống lành mạnh khi các bộ phận của nó vận hành hài hòa, khi hiện diện sự cân bằng giữa hai khuynh hướng hợp nhất và tự khẳng định này. Hệ thống sẽ bị phá vỡ, như ẩn dụ về căn bệnh ung thư, khi một số tế bào ích kỷ bành trướng giành quyền phát triển cho mình mà không hề quan tâm đến toàn bộ hệ thống cơ thể, để rồi tự hủy diệt chính nó khi cơ thể suy sụp.

Sự khuyến khích cạnh tranh hơn là hợp tác là một trong những biểu hiện chính của khuynh hướng ích kỷ trong xã hội chúng ta. Nó xuất phát từ cái nhìn sai lạc về tự nhiên của những nhà Darwin-xã hội thế kỷ 19, những người tin rằng đời sống là một cuộc đấu tranh sinh tồn (survival of the fittest) và cạnh tranh được xem như nguồn động lực của nền kinh tế. Họ quá nhấn mạnh vai trò đấu tranh và mâu thuẫn mà không nhận ra rằng mọi đấu tranh trong tự nhiên đều diễn ra trong một bối cảnh rộng hơn của sự cộng tác.

Ta có thể tìm thấy trong tự nhiên vô vàn những ví dụ về sự phụ thuộc và tương hỗ lẫn nhau. Chim thú họp thành đàn để bảo vệ cho nhau. Phần lớn sự tương hỗ ấy không đơn giản là hai chiều thuận nghịch mà phức tạp trong mạng lưới các liên kết chằng chịt. Một hệ thống càng đa dạng, bảo đảm được nhiều chức năng, càng linh động trước những biến đổi. Chính nhờ sự đa dạng và phức hợp mà xuyên suốt mạng lưới đời sống của hệ sinh thái, những nhu cầu khác nhau của các cá thể khác nhau có thể được đáp ứng. Sự cộng tác hài hòa làm cho các phần tử của hệ thống vận hành phối hợp nhau nhịp nhàng và dễ dàng ở mọi cấp độ.

3. Tất cả là Một

Chúng ta kết nối lẫn nhau trên cả phương diện vật chất và ý thức. Mỗi chúng ta là một phần của những chu kỳ trao đổi liên tục năng lượng, vật chất và thông tin với thế giới xung quanh mình. Nghiên cứu của các nhà cận tâm lý học (parapsychologist) cũng đã xác nhận tâm thức có chủ ý của một người có thể ảnh hưởng đến cảm xúc của người khác hoặc lên vật chất.

Thiên nhiên trên bình diện vi mô của thế giới lượng tử càng khẳng định tính thống nhất và sự liên hệ kết nối giữa mọi hiện tượng. “Tính nhất thể của vạn sự” dưới con mắt của vật lý học hiện đại, đã được Fritjof Capra bàn nhiều trong cuốn “Đạo của Vật Lý”. Ý nghĩa tâm linh và triết học của nó không phải là điều gì mới mẻ mà chính là quan điểm bao trùm của những nền Đạo học phương Đông cổ xưa. Mọi sự vật, biến cố là những bộ mặt khác nhau, những hiện thân của một thực tại cuối cùng, không thể phân chia. Ý thức sinh thái sâu xa là ý thức tâm linh. Khi con người thấy mình hòa nhập với thiên nhiên, với vũ trụ như một cái toàn thể, khi thân và tâm thống nhất, khi con người vượt ra khỏi bản ngã của mình, để cảm nhận được tất cả là Một, lúc đó con người đã đạt Đạo và đó chính là cái Chân Như, Thực Tại cuối cùng.
Tôi là hạt bụi trong gió, bay đi khắp nơi, say đắm vẻ đẹp diệu kỳ của Tạo Hóa biểu lộ trên vạn vật. Đời sống là những chuỗi tuần hoàn vô tận, hết đêm rồi đến ngày. Xuân, hạ, thu, đông, rồi lại xuân…

Tôi là một con người. Sinh ra trên đời là tôi đã mang nặng ân tình của Mẹ Cha, của xã hội. Chiếc áo tôi mặc từ mảnh vải của người thợ dệt, công sức của người thợ may. Hạt cơm tôi ăn chắt chiu từ giọt mồ hôi người nông dân vất vả trên cánh đồng. Tôi không tồn tại một mình.

Ngụm nước tôi uống, không khí tôi hít thở, cọng rau con cá tôi ăn, chúng chuyển hóa thành xương thịt tôi hôm nay. Rồi mai kia khi xác thân này nằm xuống, cát bụi lại về với cát bụi. Tôi lại là gió, là mưa, là mây trời, là cành hoa, ngọn cỏ… Hòa mình trong vòng tuần hoàn miên viễn của tự nhiên đó, tôi thấy mình hiện diện trong tất cả, và chứa đựng tất cả ở trong tôi.

Tài liệu tham khảo chính